Markets
News
Analysis
User
24/7
Economic Calendar
Education
Data
- Names
- Latest
- Prev












Signal Accounts for Members
All Signal Accounts
All Contests



U.K. Trade Balance Non-EU (SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
U.K. Trade Balance (Oct)A:--
F: --
P: --
U.K. Services Index MoMA:--
F: --
P: --
U.K. Construction Output MoM (SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
U.K. Industrial Output YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
U.K. Trade Balance (SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
U.K. Trade Balance EU (SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
U.K. Manufacturing Output YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
U.K. GDP MoM (Oct)A:--
F: --
P: --
U.K. GDP YoY (SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
U.K. Industrial Output MoM (Oct)A:--
F: --
P: --
U.K. Construction Output YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
France HICP Final MoM (Nov)A:--
F: --
P: --
China, Mainland Outstanding Loans Growth YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
China, Mainland M2 Money Supply YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
China, Mainland M0 Money Supply YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
China, Mainland M1 Money Supply YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
India CPI YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
India Deposit Gowth YoYA:--
F: --
P: --
Brazil Services Growth YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
Mexico Industrial Output YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
Russia Trade Balance (Oct)A:--
F: --
P: --
Philadelphia Fed President Henry Paulson delivers a speech
Canada Building Permits MoM (SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
Canada Wholesale Sales YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
Canada Wholesale Inventory MoM (Oct)A:--
F: --
P: --
Canada Wholesale Inventory YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
Canada Wholesale Sales MoM (SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
Germany Current Account (Not SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
U.S. Weekly Total Rig CountA:--
F: --
P: --
U.S. Weekly Total Oil Rig CountA:--
F: --
P: --
Japan Tankan Large Non-Manufacturing Diffusion Index (Q4)--
F: --
P: --
Japan Tankan Small Manufacturing Outlook Index (Q4)--
F: --
P: --
Japan Tankan Large Non-Manufacturing Outlook Index (Q4)--
F: --
P: --
Japan Tankan Large Manufacturing Outlook Index (Q4)--
F: --
P: --
Japan Tankan Small Manufacturing Diffusion Index (Q4)--
F: --
P: --
Japan Tankan Large Manufacturing Diffusion Index (Q4)--
F: --
P: --
Japan Tankan Large-Enterprise Capital Expenditure YoY (Q4)--
F: --
P: --
U.K. Rightmove House Price Index YoY (Dec)--
F: --
P: --
China, Mainland Industrial Output YoY (YTD) (Nov)--
F: --
P: --
China, Mainland Urban Area Unemployment Rate (Nov)--
F: --
P: --
Saudi Arabia CPI YoY (Nov)--
F: --
P: --
Euro Zone Industrial Output YoY (Oct)--
F: --
P: --
Euro Zone Industrial Output MoM (Oct)--
F: --
P: --
Canada Existing Home Sales MoM (Nov)--
F: --
P: --
Euro Zone Total Reserve Assets (Nov)--
F: --
P: --
U.K. Inflation Rate Expectations--
F: --
P: --
Canada National Economic Confidence Index--
F: --
P: --
Canada New Housing Starts (Nov)--
F: --
P: --
U.S. NY Fed Manufacturing Employment Index (Dec)--
F: --
P: --
U.S. NY Fed Manufacturing Index (Dec)--
F: --
P: --
Canada Core CPI YoY (Nov)--
F: --
P: --
Canada Manufacturing Unfilled Orders MoM (Oct)--
F: --
P: --
Canada Manufacturing New Orders MoM (Oct)--
F: --
P: --
Canada Core CPI MoM (Nov)--
F: --
P: --
Canada Manufacturing Inventory MoM (Oct)--
F: --
P: --
Canada CPI YoY (Nov)--
F: --
P: --
Canada CPI MoM (Nov)--
F: --
P: --
Canada CPI YoY (SA) (Nov)--
F: --
P: --
Canada Core CPI MoM (SA) (Nov)--
F: --
P: --


No matching data
Latest Views
Latest Views
Trending Topics
Top Columnists
Latest Update
White Label
Data API
Web Plug-ins
Affiliate Program
View All

No data

Triển vọng ngành hàng Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ phân hóa rõ nét, dưới tác động của chính sách thuế quan từ Mỹ. Trong khi nhóm xuất khẩu dệt may, gỗ, thủy sản... có thể chịu tổn thất trực tiếp thì dịch vụ hàng hóa, phân bón hay ngành điện lại giữ được vị thế nhờ ít phụ thuộc vào Mỹ và có lợi thế đầu vào.
Ngay đầu tháng 4, thị trường toàn cầu rúng động trước chính sách thuế quan mới của Mỹ. Mức thuế cơ bản 10% áp dụng cho mọi quốc gia, nhưng các nước như Việt Nam, bị đánh giá "thao túng thương mại" ở mức 90%, đối mặt với mức thuế đối ứng lên tới 46%. Dù Mỹ tạm hoãn áp dụng mức thuế này trong 90 ngày (ngoại trừ Trung Quốc) để mở đường cho đàm phán, viễn cảnh áp thuế cao vẫn là mối đe dọa hiện hữu.
Với độ mở thương mại cao và Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất, Việt Nam không tránh khỏi áp lực. Các cuộc đối thoại song phương đã được khởi động, trong đó Việt Nam nằm trong nhóm 20 quốc gia ưu tiên và đã đạt một số thỏa thuận tăng nhập khẩu từ Mỹ.
Báo cáo phân tích từ các công ty chứng khoán đều nhấn mạnh: Diễn biến và kết quả đàm phán trong thời gian tới sẽ mang tính quyết định đối với tác động thực tế đến nền kinh tế cũng như các nhóm ngành xuất khẩu chủ lực.
Không ít ngành trực tiếp chịu tác động tiêu cực
Một số nhóm ngành được đánh giá là chịu ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí rất tiêu cực, đặc biệt trong kịch bản áp thuế đối ứng 46% mà Mỹ từng công bố vào ngày 02/04/2025.
Dệt may là ngành chịu tác động trực tiếp và rõ nét nhất. Mỹ hiện là thị trường chủ lực, chiếm phần lớn doanh thu của các doanh nghiệp niêm yết như MSH, TNG, TCM. Nếu bị áp thuế 46%, hàng may mặc Việt Nam sẽ mất lợi thế cạnh tranh so với Bangladesh, Ấn Độ hay cả Trung Quốc - nơi thuế suất đã giảm từ 145% xuống 30% sau thỏa thuận với Mỹ. Các công ty buộc phải cân nhắc giảm giá bán để chia sẻ gánh nặng thuế quan với khách hàng, khiến biên lợi nhuận vốn mỏng sẽ càng bị siết chặt hơn.
Ngành chế biến gỗ cũng đối mặt nhiều thách thức. Mỹ đang là thị trường lớn nhất, chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu gỗ năm 2024. Trước khi có thỏa thuận thuế mới giữa Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam từng được hưởng lợi lớn từ việc chuyển dịch đơn hàng khỏi Trung Quốc, giúp kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ được dự báo tăng tới 10.7% so với cùng kỳ trong năm 2025.
Tuy nhiên, với việc Trung Quốc chỉ còn chịu thuế 30%, tốc độ giành thị phần của Việt Nam giảm sút và dự báo kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ còn tăng 7%, tương đương khoảng 9.5 tỷ USD. Các doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu cao sang Mỹ như PTB (75% mảng gỗ), SAV (80%), hay ACG (20%) đối mặt nguy cơ giảm đơn hàng, sụt lợi nhuận.
Ngành thủy sản chịu áp lực lớn, đặc biệt là tôm - mặt hàng Việt Nam mất lợi thế giá so với Ấn Độ và Ecuador - 2 nước chỉ bị áp thuế 27% và 10%. Các doanh nghiệp xuất khẩu lớn sang Mỹ như FMC và MPC sẽ chịu sức ép lớn nếu buộc phải chia sẻ phần thuế này với khách hàng.
Riêng mặt hàng cá tra có thể duy trì lợi thế cạnh tranh về giá so với cá rô phi tại Mỹ nhờ chênh lệch thuế với Trung Quốc. Dưới kịch bản thuế 10% với Việt Nam, xuất khẩu cá tra sang Mỹ từng được kỳ vọng tăng 10.6% trong năm 2025, nhưng triển vọng hiện tại đã thận trọng hơn, xuống còn 4.9%, do diễn biến tích cực trong đàm phán thương mại Mỹ - Trung Quốc.
Ngành bất động sản khu công nghiệp có thể bị ảnh hưởng gián tiếp từ làn sóng điều chỉnh FDI. Các doanh nghiệp chế biến chế tạo - nhóm thuê đất chính - sẽ phải cân nhắc lại kế hoạch đầu tư. Điều này khiến nhu cầu thuê mới giảm sút, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp như KBC, BCM, IDC, VGC, SZC, SIP.
Ngành dịch vụ logistics và cảng biển cũng không nằm ngoài vòng ảnh hưởng. Nếu xuất khẩu sang Mỹ suy giảm, sản lượng container thông qua cảng cũng giảm theo. Điều này tác động trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp vận tải, kho bãi và logistics nội địa.
Ngành săm lốp cũng chịu ảnh hưởng mạnh do xuất khẩu sang Mỹ chiếm khoảng 20-25% doanh thu của nhiều doanh nghiệp. DRC là ví dụ điển hình với khả năng bị bào mòn biên lợi nhuận nếu buộc phải giảm giá bán để giữ đơn hàng.
Ngoài ra, một số ngành khác như sản phẩm từ chất dẻo (AAA), cao su (DPR, GVR, PHR), giấy (TLG), xây dựng công nghiệp (CTD, HBC) và chứng khoán cũng có thể chịu ảnh hưởng ở mức độ từ "trung bình tiêu cực" đến "tiêu cực". Các yếu tố rủi ro bao gồm: Giảm đơn hàng từ Mỹ, chậm giải ngân FDI, và ảnh hưởng gián tiếp đến tâm lý thị trường.
Nhiều ngành có triển vọng tích cực hoặc trung lập
Dù chịu sức ép lớn từ chính sách thuế mới, một số ngành vẫn giữ được thế trung lập, thậm chí có triển vọng tích cực nếu diễn biến thị trường thuận lợi.
Ngành thép được xếp vào nhóm trung lập, do không nằm trong danh sách sản phẩm chịu thuế đối ứng mới. Các sản phẩm thép xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ vốn đã chịu thuế 25% từ năm 2018 theo Mục 232. Do đó, tác động trực tiếp từ chính sách thuế mới là không đáng kể. Trong khi đó, các doanh nghiệp như Hòa Phát (HPG) không phụ thuộc nhiều vào thị trường Mỹ, còn Hoa Sen (HSG) và Nam Kim (NKG) hiện đang chịu điều tra chống bán phá giá.
Ngành hóa chất cũng được đánh giá là trung lập, bởi xuất khẩu sang Mỹ chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch của ngành. DGC - doanh nghiệp đầu ngành - gần như không chịu ảnh hưởng từ chính sách mới.
Đáng chú ý, dịch vụ hàng không hàng hóa lại nổi lên như một điểm sáng. Với mức thuế cạnh tranh 10% so với Trung Quốc (30%) hay Mexico (25%), các công ty như SCS và NCT có thể hưởng lợi từ sự dịch chuyển chuỗi cung ứng, đặc biệt tại khu vực phía Bắc - nơi tập trung các nhà máy công nghệ lớn.
Phân bón cũng được hưởng lợi trong cả 2 kịch bản thuế nhờ kỳ vọng giá khí đầu vào giảm mạnh theo diễn biến giá dầu. DCM và DPM được đánh giá trung lập bởi ảnh hưởng xuất khẩu không đáng kể, tuy nhiên vẫn được xem là lựa chọn ổn định về lợi nhuận.
Trong ngành nhựa xây dựng, biên lợi nhuận gộp được hỗ trợ tích cực bởi giá hạt nhựa PVC vẫn ở vùng thấp. BMP không xuất khẩu sang Mỹ nên được Vietcap đánh giá là lựa chọn phòng thủ hiệu quả.
Ngành điện có đánh giá chung là trung lập, tuy nhiên có sự phân hóa giữa các phân khúc. Thủy điện và nhiệt điện than được đánh giá tích cực trong kịch bản 10%, do biên lợi nhuận ổn định và ít phụ thuộc vào xuất khẩu. Một số mã như BWE, QTP, REE được đánh giá cao nhờ cổ tức tốt và ổn định dài hạn.
Nhóm ngành tập trung vào thị trường nội địa hoặc hưởng lợi từ chính sách điều hành vĩ mô được chú ý. Ngân hàng được đánh giá trung lập, do ảnh hưởng gián tiếp từ xuất khẩu và FDI là không quá lớn. Tuy nhiên, định giá cổ phiếu ở vùng hấp dẫn có thể mở ra cơ hội đầu tư mới, đặc biệt ở các ngân hàng có chi phí vốn thấp và khả năng hưởng lợi từ đầu tư công.
Ngành bán lẻ và hàng tiêu dùng nhanh được cho là có triển vọng tích cực trong kịch bản thuế thấp, nhờ kỳ vọng phục hồi tiêu dùng nội địa. Tuy nhiên, trong đánh giá của MBS Research và VCBS, ảnh hưởng từ tỷ giá khiến họ xếp ngành vào mức trung lập. Vietcap thì cho rằng nhóm này có khả năng chống chịu tốt, nhất là các doanh nghiệp như MSN, MCH, VNM, FRT, FPT hay CTR vốn có doanh thu chủ yếu từ thị trường nội địa.
Ngành dược phẩm được đánh giá tích cực trong kịch bản 10%, nhưng sẽ chuyển thành trung lập nếu thuế suất lên tới 46%. Ngành nước sạch được xem là nơi phòng thủ, giữ ở mức trung lập, trong đó BWE được đánh giá cao.
Đối với ngành ô tô phân phối, dù không chịu tác động trực tiếp từ thuế quan, biến động tỷ giá có thể ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu nên được đánh giá trung lập.
Bất động sản dân dụng được hưởng lợi trong kịch bản thuế 10%, nhờ lãi suất ổn định, tiến độ pháp lý cải thiện và dòng tiền đầu tư quay lại. Các chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội cũng là yếu tố thuận lợi cho doanh nghiệp như HQC. NLG và KDH được đánh giá tích cực, trong khi một số công ty khác được xếp trung lập bởi triển vọng chưa rõ ràng.
Ngành xây dựng có thể được hưởng lợi từ đầu tư công, vốn là giải pháp được Chính phủ đẩy mạnh để hỗ trợ nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp xây dựng như VCG hay HHV hiện được xếp ở mức trung lập, do áp lực chi phí và cạnh tranh giá vẫn lớn.
Hướng đi nào cho ngành hàng Việt?
Tổng thể, triển vọng ngành hàng Việt Nam dưới chính sách thuế quan mới của Mỹ thể hiện bức tranh phân hóa mạnh mẽ. Những ngành phụ thuộc nhiều vào thị trường Mỹ, đặc biệt là các ngành có tính gia công cao, thâm dụng lao động và biên lợi nhuận thấp, sẽ bị tổn thương rõ rệt nếu kịch bản thuế cao trở thành hiện thực.
Ngược lại, một số ngành ít phụ thuộc vào Mỹ hoặc đã có sự chuẩn bị về thị trường thay thế có thể duy trì vị thế trung lập hoặc thậm chí cải thiện vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Thời gian tới, diễn biến đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ sẽ là nhân tố quyết định để định hình lại cục diện thương mại và tương lai các ngành xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế.
Các phân tích đều đồng thuận rằng, việc theo dõi sát sao diễn biến từ Mỹ và động thái từ Trung Quốc, Ấn Độ, EU là điều bắt buộc với các doanh nghiệp xuất khẩu. Đây sẽ là giai đoạn mà tính linh hoạt trong định hướng thị trường, cấu trúc đơn hàng và kiểm soát chi phí đóng vai trò sống còn.
Không chờ đợi kết quả từ bàn đàm phán, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động hành động. Họ đang gấp rút đa dạng hóa thị trường, tìm lối sang châu Âu, Nhật Bản, Trung Đông và Mỹ Latin, dù cạnh tranh tại đây dự kiến tăng cao khi Trung Quốc cũng chuyển hướng xuất khẩu. Trong nước, Chính phủ đẩy mạnh đầu tư công với ngân sách hàng tỷ USD cho cơ sở hạ tầng năm 2025, đồng thời khuyến khích tiêu dùng nội địa qua các chính sách giảm thuế và ưu đãi tín dụng.
Chính sự chủ động của doanh nghiệp, kết hợp với các chính sách hỗ trợ kịp thời và quyết liệt từ Chính phủ, sẽ là chìa khóa để Việt Nam vượt qua thời điểm khó khăn này và có thể vươn xa hơn trên bản đồ thương mại toàn cầu.
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TRONG BÃO THUẾ QUAN
Thế Mạnh (t/h)
FILI - 12:00:00 16/06/2025
Tuần giao dịch từ 09-13/06 khép lại trong sắc đỏ khi cả hai chỉ số chính đồng loạt giảm điểm. VN-Index đánh dấu tuần giảm thứ 2 liên tiếp trong tháng 6, lùi về 1,315.49 điểm, mất 1.08% so với cuối tuần trước. HNX-Index đảo chiều sau một tuần tăng, giảm mạnh 1.66% xuống 224.82 điểm.
Thanh khoản trên cả hai sàn cũng suy yếu đáng kể. Khối lượng khớp lệnh bình quân trên HOSE giảm 15%, còn gần 851 triệu cp/phiên. Sàn HNX cũng ghi nhận thanh khoản giảm 17%, còn hơn 93 triệu cp/phiên.
Nhóm cổ phiếu ảnh hưởng đến chỉ số VN-Index từ ngày 09-13/06 (tính theo điểm)
Tác động tiêu cực lớn nhất lên VN-Index tuần qua tiếp tục đến từ nhóm cổ phiếu họ Vingroup. Cổ phiếu VIC là mã gây áp lực mạnh nhất khi lấy đi gần 10 điểm của chỉ số. VHM và VRE cũng lần lượt làm mất hơn 6.8 điểm và gần 1 điểm.
Ngoài nhóm Vingroup, loạt cổ phiếu vốn hóa lớn khác như GVR (giảm 1 điểm), EIB (giảm 0.6 điểm), GEX (giảm 0.4 điểm), cùng với BCM, POW, SHB, VJC đều giảm từ 0.2-0.3 điểm, tiếp tục kéo thị trường đi xuống.
Ở chiều ngược lại, nhóm ngân hàng đóng vai trò là lực đỡ chính, giúp VN-Index tránh được mức giảm sâu hơn. CTG là mã tích cực nhất trên sàn HOSE, đóng góp hơn 2.2 điểm. Các cổ phiếu TCB, STB, MBB và VPB cũng lần lượt tăng 1.5 điểm, 1.4 điểm, 1 điểm và 0.65 điểm.
Đáng chú ý, nhóm cổ phiếu dầu khí trở thành điểm sáng hiếm hoi trong bối cảnh căng thẳng Trung Đông đẩy giá dầu đi lên. GAS và PLX lần lượt góp 0.8 và 0.5 điểm cho chỉ số, lọt vào top 10 mã tích cực nhất tuần.
Nhóm cổ phiếu kéo tăng chỉ số VN30-Index từ ngày 09-13/06 (tính theo điểm)
Nhóm cổ phiếu kéo giảm chỉ số VN30-Index từ ngày 09-13/06 (tính theo điểm)
Rổ VN30 ghi nhận sự trở lại của sắc xanh với 19 mã tăng giá. Dẫn đầu là MWG tăng 4.4 điểm, STB tăng 3.8 điểm, TCB tăng 2.6 điểm. Các cổ phiếu HPG, FPT, MBB cũng ghi nhận mức tăng từ 1.5-1.9 điểm. Ở chiều giảm, 11 mã còn lại có mức điều chỉnh mạnh nhất thuộc về VIC giảm tới 17.7 điểm, VHM giảm 10.3 điểm, VRE giảm 2.5 điểm. Các mã còn lại như VJC, SHB, SSI đều giảm dưới 1 điểm.
Nhóm cổ phiếu ảnh hưởng đến chỉ số HNX-Index từ ngày 09-13/06 (tính theo điểm)
Trên sàn HNX, áp lực giảm chủ yếu đến từ HUT (giảm gần 0.7 điểm), THD (giảm 0.5 điểm), SHB (giảm 0.4 điểm) và KSV (giảm 0.3 điểm). Ngược lại, PVS là điểm sáng khi đóng góp hơn 0.7 điểm cho chỉ số. Tuy vậy, các mã còn lại như VFS, NVB, VIF chỉ tăng nhẹ với biên độ không đáng kể.
Thế Mạnh
FILI - 19:28:00 14/06/2025

HĐQT CTCP - Tổng Công ty Nước - Môi trường Bình Dương (Biwase, HOSE: BWE) thống nhất chủ trương thực hiện chuyển nhượng cổ phần CTCP Nước Biwase Long An cho CTCP Nước Thủ Dầu Một (TDMWater, HOSE: TDM).
Tuy nhiên, số lượng chuyển nhượng cụ thể chưa được Biwase công bố, nhưng dự kiến đảm bảo Biwase Long An vẫn là công ty con của Biwase.
Về mối liên hệ, Biwase là công ty liên kết của TDM với sở hữu 37.42%. Cùng với đó, ông Nguyễn Văn Trí – Chủ tịch HĐQT TDM và ông Nguyễn Thanh Phong – Thành viên HĐQT TDM, đồng thời giữ vai trò Thành viên HĐQT Biwase.
Các công ty liên doanh, liên kết của TDM thời điểm cuối quý 1/2025
Biwase Long An thành lập ngày 02/12/2015 (tên gọi cũ CTCP Đầu tư Hạ tầng nước DNP - Long An) hoạt động chính khai thác, xử lý và cung cấp nước. Trụ sở chính tại ấp 7, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.
Thời điểm tháng 10/2022, Biwase Long An có vốn điều lệ 322 tỷ đồng, với 100% vốn tư nhân, trong đó CTCP DNP Holding sở hữu 44% vốn. Tháng 3/2023, Biwase mua lại 25.4% cổ phần tại Biwase Long An từ DNP. Đến cuối tháng 5/2023, Biwase nâng tỷ lệ sở hữu lên 91.6% (ước tính tổng giá trị mua lại công ty con là 561 tỷ đồng).
Vào cuối năm 2023, Biwase Long An nâng vốn điều lệ lên 644 tỷ đồng, hiện Biwase đang sở hữu 94.54% vốn (cập nhật đến cuối quý 1/2025). Người đại diện pháp luật Biwase Long An là ông Trần Chiến Công - Chủ tịch HĐQT và ông Bùi Trường Sơn - Tổng Giám đốc. Trong đó, ông Công là Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Biwase.
Theo giới thiệu trên website, Biwase Long An đang vận hành nhà máy nước Nhị Thành với tổng công suất 60 ngàn m3 ngày đêm (giai đoạn 1 và 2) và là một trong những nhà máy xử lý nước mặt lớn nhất tại Long An. Công ty cũng đang triển khai nâng công suất nhà máy nước Nhị Thành lên 120 ngàn m3 ngày đêm, dự kiến hoàn thành vào tháng 10 năm nay.
Trước đó vào cuối tháng 5/2025, HĐQT BWE thống nhất chủ trương thành lập Công ty TNHH Một thành viên Xử lý Nước Thải và Thoát nước Biwase, trụ sở tại Bình Dương, vốn điều lệ 30 tỷ đồng do BWE sở hữu 100%. Đây cũng là công ty con thứ 10 của ông lớn ngành nước tại Bình Dương.
Đầu tháng 5, HĐQT BWE cũng thống nhất chủ trương đầu tư mua từ 20 – 50% cổ phần có quyền biểu quyết tại CTCP Cấp nước Vĩnh Long (Vwaco, UPCoM: VLW). Đến ngày 21/05, BWE thông báo đã mua thành công 7.1 triệu cp VLM và chính thức trở thành cổ đông lớn tại đây với tỷ lệ sở hữu 24.57%, từ việc không nắm giữ cổ phiếu nào. Trong thời gian kể trên, có đúng 7.1 triệu cp VLW được giao dịch thỏa thuận, bằng với lượng cổ phiếu BWE đã mua, giá trị 177.5 tỷ đồng.
Thanh Tú
FILI - 11:22:02 14/06/2025


Cuộc 'nổi loạn' của thị trường trái phiếu
Lần đầu tiên sau gần một thế hệ, các Chính phủ bắt đầu thường xuyên đối mặt với sự phản kháng từ nhà đầu tư khi phát hành trái phiếu dài hạn.
Các phiên đấu giá trái phiếu Chính phủ thường diễn ra đều đặn đến mức ít khi thu hút sự chú ý. Tuy nhiên, đợt phát hành trái phiếu kỳ hạn 20 năm của Nhật Bản tháng trước lại là một ngoại lệ.
Khi các hãng tin tài chính đồng loạt đưa tin về kết quả ảm đạm này, giá trái phiếu chính phủ Nhật Bản kỳ hạn dài nhất lao dốc mạnh, đẩy lợi suất tăng vọt và làm tăng chi phí vay mượn. Ngay ngày hôm sau, phiên đấu giá trái phiếu 20 năm của Mỹ cũng chỉ nhận được phản hồi hờ hững.
Việc giới đầu tư chú ý sát sao đến từng chi tiết nhỏ trong các phiên đấu giá trái phiếu Chính phủ và lợi suất trái phiếu dài hạn tăng cao là những biểu hiện cho thấy nhu cầu đối với loại tài sản này đang lung lay, đúng vào thời điểm nhiều bộ tài chính lên kế hoạch phát hành trái phiếu ở mức kỷ lục, trong bối cảnh kinh tế thế giới bước vào một kỷ nguyên mới đầy bất định.
Lần đầu tiên sau gần một thế hệ, các Chính phủ bắt đầu đối mặt với sự phản kháng từ thị trường khi phát hành trái phiếu dài hạn.
“Đây là vấn đề kinh điển về mất cân đối cung - cầu, nhưng ở quy mô toàn cầu”, Amanda Stitt, chuyên gia thu nhập cố định tại công ty quản lý tài sản T Rowe Price với quy mô 1.6 ngàn tỷ USD, nhận định. “Kỷ nguyên vốn vay dài hạn giá rẻ đã chấm dứt, giờ đây các chính phủ chen chúc trong một căn phòng đầy người bán”.
Chi phí vay dài hạn tăng mạnh trên thế giới
Sự dè dặt của một số nhà đầu tư đã đẩy chi phí vay 30 năm của các chính phủ như Anh, Nhật Bản và Mỹ lên mức cao nhất trong nhiều thập kỷ, đồng thời đưa câu chuyện về tính bền vững của nợ công lên hàng đầu trong chương trình nghị sự chính trị. Ở nhiều quốc gia, chi phí trả lãi nợ ngày càng tăng đe dọa bóp nghẹt ngân sách cho các lĩnh vực khác.
Nguồn cung tăng lên, dù do chính phủ vay thêm hay do các ngân hàng trung ương bán ra số trái phiếu đã mua sau khủng hoảng tài chính và đại dịch Covid-19, đang gặp phải sự rút lui của một số nhà đầu tư truyền thống như quỹ hưu trí và công ty bảo hiểm nhân thọ.
Các bộ tài chính đang mắc nợ có nguy cơ ngày càng dễ bị tổn thương trước sự phản ứng của nhà đầu tư trái phiếu. Những cuộc tranh cãi về chính sách thương mại của Mỹ năm nay và cuộc khủng hoảng trái phiếu chính phủ Anh năm 2022 sau “ngân sách mini” là lời cảnh báo về những gì có thể xảy ra nếu kỷ luật tài khóa không được siết chặt, các nhà đầu tư kỳ cựu cảnh báo. Hệ lụy có thể rất lớn và lan rộng, cả về cách điều hành kinh tế lẫn triển vọng của khu vực doanh nghiệp.
“Thị trường trái phiếu chưa bao giờ quyền lực đến vậy, bởi chúng ta chưa từng có nhiều nợ đến thế”, Ed Yardeni, nhà kinh tế học từng đặt ra thuật ngữ “bond vigilantes” (Đội tự kiểm trái phiếu) vào thập niên 1980 để chỉ các nhà đầu tư hành động để buộc Chính phủ phải củng cố kỷ luật tài khóa, nhận định.
“Chúng ta phải nhìn nhận vấn đề nợ ở quy mô toàn cầu”, ông nói thêm, dẫn chứng lãi suất tăng ở Anh, Nhật Bản và các nơi khác. “Rủi ro là: Các đội tự kiểm trái phiếu trên toàn thế giới sẽ liên kết lại”.
Tại trung tâm kinh tế toàn cầu, lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ trị giá 29 ngàn tỷ USD đã vượt mốc 5% trong những tuần gần đây, tiệm cận mức của năm 2023 - thời điểm nhà đầu tư lo ngại lãi suất sẽ phải duy trì ở mức cao lâu hơn để kiềm chế lạm phát - và trước đó là mức cao nhất kể từ khủng hoảng tài chính.
Điều này diễn ra đúng lúc một dự luật về thuế và chi tiêu có thể bổ sung hơn 2 ngàn tỷ USD vào nợ công Mỹ đang được Quốc hội xem xét, trong bối cảnh tác động kéo dài từ việc Tổng thống Donald Trump áp thuế lên các đối tác thương mại của Mỹ.
Một số nhân vật hàng đầu Phố Wall đã lên tiếng cảnh báo về tình hình tài khóa của nước này.
Jamie Dimon, Giám đốc điều hành JPMorgan Chase, gần đây cảnh báo rằng nợ công ngày càng tăng có thể “làm sụp đổ” thị trường trái phiếu kho bạc, buộc Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent phải trấn an rằng Mỹ “sẽ không bao giờ vỡ nợ”.
Vào ngày 05/06, Larry Fink, Giám đốc điều hành BlackRock, nhận định nếu kinh tế tiếp tục tăng trưởng khoảng 2%, “thâm hụt ngân sách sẽ nhấn chìm đất nước này”, trong khi Ken Griffin, nhà sáng lập Citadel, cho rằng việc duy trì thâm hụt 6 hoặc 7% GDP khi toàn dụng lao động là “hoàn toàn vô trách nhiệm về tài khóa”.
Elon Musk, tỷ phú công nghệ từng là khách quen tại Nhà Trắng dưới thời Trump, gọi dự luật này là một “sự ghê tởm” và cho rằng Quốc hội đang “khiến nước Mỹ phá sản”.
Gánh nặng nợ của Pháp được cựu Thủ tướng Michel Barnier mô tả là mối hiểm hoại treo lơ lửng trong năm ngoái. Nền kinh tế lớn thứ 3 châu Âu dự kiến chi 62 tỷ Euro để trả lãi vay trong năm nay, tương đương tổng chi tiêu cho quốc phòng và giáo dục, chưa kể lương hưu.
Tại Anh, chi phí vay 30 năm của Chính phủ đã lên mức cao nhất kể từ năm 1998 trong bối cảnh nhà đầu tư lo ngại về núi nợ ngày càng lớn. Ngay cả Đức, quốc gia vốn thận trọng với mức nợ thấp hơn nhiều, cũng đang lên kế hoạch tăng phát hành trái phiếu Bund (trái phiếu chính phủ Đức).
Ở Nhật Bản, nơi chính sách tiền tệ siêu nới lỏng của ngân hàng trung ương từng giữ lợi suất dài hạn dưới 1% trong nhiều năm, một đợt bán tháo khốc liệt đã đẩy lợi suất lên mức kỷ lục. Lợi suất trái phiếu chính phủ Nhật Bản kỳ hạn 30 năm hiện quanh mức 3%.
Các bộ trưởng tài chính vẫn có một số công cụ để xoay xở. Một số đã chuyển sang phát hành nhiều trái phiếu ngắn hạn hơn, nơi lợi suất chủ yếu phụ thuộc vào lãi suất chứ ít chịu tác động từ cung-cầu và lạm phát. Các ngân hàng trung ương cũng có thể chậm lại nhịp độ cắt giảm lượng phiếu tích lũy sau các cuộc khủng hoảng.
Tuy nhiên, theo các nhà quản lý quỹ, trừ khi tăng trưởng kinh tế bứt phá mạnh, cắt giảm chi tiêu quá mức là giải pháp bền vững duy nhất. Craig Inches, Trưởng bộ phận lãi suất và tiền mặt tại Royal London Asset Management, cho rằng vay mượn quá nhiều là nguyên nhân chính gây rối loạn thị trường trái phiếu dài hạn, buộc các Chính phủ phải đưa ra những quyết định cắt giảm chi phí khó khăn.
“Câu hỏi là, liệu các Chính phủ có đủ quyết tâm không?”.
Áp lực gia tăng trên thị trường trái phiếu dài hạn toàn cầu
Chi phí vay đã tăng đều đặn kể từ đại dịch COVID-19 khi lạm phát leo thang và các ngân hàng trung ương giảm mua vào. Tuy nhiên, đợt bán tháo gần đây tập trung mạnh vào trái phiếu dài hạn, khiến giá giảm nhanh hơn và lợi suất tăng mạnh hơn so với trái phiếu ngắn hạn.
Chênh lệch lợi suất giữa trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 2 năm và 30 năm đã lên khoảng 1 điểm phần trăm, là mức cao nhất trong 3 năm, với xu hướng tương tự ở các nơi khác. Nhiều nhà quản lý quỹ lớn đang đặt cược rằng đường cong lợi suất, thể hiện chi phí vay ở các kỳ hạn khác nhau, sẽ tiếp tục dốc lên.
Đây là vấn đề đối với các chính phủ, vốn phát hành trái phiếu ở nhiều kỳ hạn khác nhau không chỉ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư, mà còn để phân tán lịch đáo hạn và giảm rủi ro biến động lãi suất thị trường.
Ngay cả với các chiến lược quản lý như vậy, chi phí trả lãi nợ của nhóm các nước giàu OECD đã lên mức cao nhất kể từ ít nhất năm 2007. Ở nhiều trường hợp, chi phí lãi nợ còn vượt ngân sách các bộ lớn như quốc phòng hoặc giáo dục.
Các ngân hàng trung ương tại hầu hết các nền kinh tế lớn vẫn đang trên lộ trình cắt giảm lãi suất, giúp giữ ổn định lãi suất ngắn hạn. Tuy nhiên, họ ít có ảnh hưởng hơn đối với chi phí vay dài hạn. Ở đây, kỳ vọng lạm phát của nhà đầu tư, yếu tố có thể làm xói mòn lợi suất cố định của trái phiếu, và lo ngại về nguồn cung dư thừa cũng rất quan trọng.
Các chỉ số về phần bù kỳ hạn, tức phần tăng thêm để bù đắp cho rủi ro nắm giữ dài hơn, đang tăng lên. Phần lớn các nhà phân tích tin rằng lãi suất dài hạn sẽ còn tiếp tục tăng, được hỗ trợ bởi các khoản cược vào độ dốc của đường cong lợi suất của nhà đầu tư.
Giá trái phiếu Chính phủ cũng là chuẩn tham chiếu cho chi phí vay của doanh nghiệp, nên nếu có vấn đề nghiêm trọng ở đầu dài của đường cong lợi suất, chi phí vay của doanh nghiệp cũng sẽ bị ảnh hưởng.
“Lãi suất càng lên cao và ngân hàng trung ương càng ít kiểm soát được đầu dài, áp lực lên khu vực tư nhân càng lớn”, Mike Scott, Trưởng bộ phận trái phiếu lợi suất cao toàn cầu tại Man Group, nhận định.
Nhu cầu đối với trái phiếu Chính phủ dài hạn càng bị ảnh hưởng khi một số nhà đầu tư truyền thống rút lui. Tại Anh, các quỹ hưu trí doanh nghiệp (theo hướng đảm bảo lương hưu cố định cho nhân viên) giờ đây phần lớn đã ngừng tiếp nhận thành viên mới. Khi những thành viên hiện tại dần bước vào tuổi nghỉ hưu, nhu cầu nắm giữ trái phiếu dài hạn của các quỹ này cũng giảm mạnh. Thay vào đó, các quỹ phòng hộ đang dần "lấp chỗ trống" mà những nhà đầu tư truyền thống để lại.
Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở Nhật Bản, nơi thế hệ bùng nổ dân số sau chiến tranh đang già đi và không còn cần tích trữ trái phiếu dài hạn ở mức như trước, theo các nhà phân tích.
Điều này cộng hưởng với sự trở lại của lạm phát, tạo ra làn sóng bán tháo đẩy lợi suất trái phiếu Chính phủ Nhật Bản lên mức kỷ lục trong những tuần gần đây. Một trong những điểm tựa vững chắc nhất của thị trường trái phiếu dài hạn toàn cầu đang dần mất đi.
“Các Chính phủ trên khắp thế giới phát triển đang phát hành thêm nhiều trái phiếu đúng lúc điểm tựa JGB (trái phiếu chính phủ Nhật Bản) trở nên lung lay”, James Novotny, nhà quản lý đầu tư tại Jupiter Asset Management, nhận định.
Các nước xoay xở ra sao khi chi phí đi vay tăng mạnh?
Trước cuộc khủng hoảng cung-cầu trái phiếu dài hạn, các Chính phủ đang vội vã tìm kiếm những giải pháp tức thời.
Văn phòng Quản lý Nợ của Anh năm nay đã giảm quy mô phát hành trái phiếu dài hạn, với lý do “sức cầu suy yếu” đối với loại trái phiếu này và nhu cầu đảm bảo giá trị cho người nộp thuế.
Chênh lệch lợi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 30 năm và 2 năm
Tại Nhật Bản, chính phủ đã làm dấy lên đồn đoán về một động thái tương tự khi tham khảo ý kiến thị trường về kế hoạch phát hành tháng trước. Trước đây cũng từng có những biện pháp mạnh tay: năm 2001, Mỹ từng tạm dừng hoàn toàn việc phát hành trái phiếu 30 năm.
Ở Mỹ, bất chấp việc ông Bessent liên tục chỉ trích người tiền nhiệm Janet Yellen vì dựa nhiều vào phát hành trái phiếu ngắn hạn, ông cho biết bất kỳ động thái nào nhằm kéo dài kỳ hạn nợ sẽ “phụ thuộc vào tình hình” và thay vào đó gợi ý có thể tăng mua lại trái phiếu cũ.
Khả năng xoay xở của các quốc gia phụ thuộc vào cấu trúc kỳ hạn nợ hiện tại. Anh đang ở vị trí khá tốt, khi kỳ hạn trung bình của danh mục nợ là 14 năm.
Tuy nhiên, một số nhà đầu tư cảnh báo rằng rút ngắn kỳ hạn nợ khiến các quốc gia dễ bị rủi ro tái cấp vốn hơn, đặc điểm thường thấy ở các thị trường mới nổi. “[Điều này] không giải quyết được vấn đề cầu cơ bản, chỉ đơn giản là đẩy nó xuống phía ngắn hơn của đường cong”, Stitt của T Rowe nhận định.
Vẫn còn những công cụ khác. Các ngân hàng trung ương cũng có thể dừng hoặc giảm bán ra trái phiếu chính phủ tích lũy trong các chương trình khẩn cấp trước đây, tức là giảm tốc độ thắt chặt định lượng (QT) để đảo ngược nới lỏng định lượng (QE).
Barclays’ Moyeen Islam gần đây nhận định trong một báo cáo rằng “việc tạm dừng bán chủ động” của Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) có “nhiều ý nghĩa tích cực”, có thể giúp nâng giá trái phiếu và “mang lại tác động tích cực lớn cho triển vọng tài khóa”. Ngân hàng dự kiến sẽ công bố vào tháng 9 lượng trái phiếu sẽ bán ra trong năm tới như một phần của chương trình QT, dù trong thư gửi Bộ Tài chính tháng trước, Thống đốc BOE Andrew Bailey cho biết “không có bằng chứng nào cho thấy việc bán trái phiếu làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thị trường trên nhiều chỉ số tài chính”.
Các nhà hoạch định chính sách tiền tệ cũng ý thức rõ tác động của việc bán tháo trái phiếu dài hạn đến chính sách tiền tệ. Catherine Mann, thành viên Ủy ban thiết lập lãi suất của Ngân hàng Trung ương Anh, phát biểu gần đây rằng “điều quan trọng đối với nhà hoạch định chính sách tiền tệ là phải cân nhắc tác động tương hỗ giữa QT và quyết định lãi suất, nhất là khi hai công cụ này đang tác động theo hai hướng khác nhau”.
Bà cảnh báo rằng tác động thắt chặt các điều kiện tài chính của QT “không thể được bù đắp hoàn toàn” bằng việc cắt giảm lãi suất, và “cần cân nhắc kỹ lưỡng sự kết hợp các công cụ và tác động vĩ mô của chúng”.
Nợ công Mỹ leo thang
Lộ trình tài khóa của Mỹ, quốc gia vay nợ lớn nhất thế giới, sẽ đóng vai trò then chốt trong việc liệu thế giới có thể xử lý được núi trái phiếu dài hạn hay không.
Ngày 04/06, Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ cho biết rằng dự luật lớn và tuyệt đẹp (big & beautiful bill) do ông Trump khởi xướng sẽ kéo dài thâm hụt ngân sách và bổ sung 2.4 ngàn tỷ USD vào nợ công đến năm 2034.
Mỹ từ lâu được hưởng sự linh hoạt hơn các quốc gia khác trong quản lý tài khóa, nhờ vai trò trung tâm của đồng USD trong thương mại và tài chính toàn cầu, cũng như vị thế của trái phiếu kho bạc Mỹ là tài sản dự trữ của thế giới.
Hemingway từng mô tả con đường đến phá sản là “từ từ, rồi đột ngột”. Mỹ có khả năng sẽ ở phần “từ từ” ... mãi mãi.
Tuy nhiên, các nhà phân tích ngày càng cảnh báo rằng việc tăng tốc phát hành trái phiếu dài hạn của Mỹ, đúng lúc nhà đầu tư toàn cầu có dấu hiệu đa dạng hóa khỏi tài sản bằng USD, có thể tạo ra điều kiện cho một sự cố.
Mỹ đã mất xếp hạng tín nhiệm AAA cuối cùng vào tháng 5 khi Moody’s cảnh báo về diễn biến nợ xấu đi. Thị trường vốn đã căng thẳng sau đợt bán tháo do chiến tranh thương mại hồi tháng 4 và những chỉ trích của Trump nhắm vào Chủ tịch Fed Jay Powell, làm lung lay niềm tin của các nhà đầu tư lớn vào tính độc lập của Fed và khả năng kiểm soát lạm phát dài hạn.
Dự luật này “như đổ thêm dầu vào lửa” vấn đề nợ của Mỹ, theo April LaRusse, trưởng bộ phận chuyên gia đầu tư tại Insight Investment, một nhà đầu tư trái phiếu lớn. Bà cho rằng “tác động lên thâm hụt ngân sách trông rất tệ”, “ngay cả khi đưa ra những giả định lạc quan” về nguồn thu từ thuế quan.
Một mối lo ngại là diễn biến nợ xấu đi ở một số quốc gia khiến họ kém khả năng chống chọi với các cú sốc bất ngờ hoặc quyết định chính trị sai lầm trong tương lai. “Ở một số quốc gia, nợ vẫn bền vững nhưng dễ tổn thương trước các cú sốc mới”, Peder Beck-Friis, nhà kinh tế tại Pimco, nhận định. Ông lấy Anh và Ý làm ví dụ.
Ở các nước khác, như Mỹ và Pháp - vốn không có ngân sách cân bằng từ năm 1974 - nợ có vẻ “rất không bền vững nếu tiếp tục con đường hiện tại” mà không có sự điều chỉnh nào, ông lập luận.
Một số ý kiến cho rằng Mỹ và các quốc gia khác đang ở giai đoạn đầu của một cuộc khủng hoảng nợ bền vững. Nhà đầu tư kỳ cựu Ray Dalio cảnh báo về một “vòng xoáy tử thần” khi chi phí vay bị đẩy lên cao trong một chu kỳ tự củng cố.
Tuy nhiên, phần lớn nhà đầu tư tin rằng Mỹ có thể tránh được cái bẫy này, một phần nhờ áp lực từ thị trường trái phiếu. “Hemingway mô tả con đường đến phá sản là ‘từ từ, rồi đột ngột’”, Steve Englander của Standard Chartered viết trong một báo cáo gần đây. “Theo chúng tôi, Mỹ có khả năng sẽ ở phần ‘từ từ’ trong thời gian dài, có lẽ là mãi mãi”.
Một lựa chọn khác là các quốc gia làm xói mòn giá trị thực của nợ bằng cách chấp nhận mức lạm phát cao hơn bình thường. “Rủi ro vỡ nợ trên thực tế thông qua lạm phát có thể trở thành rủi ro thực sự”, Englander cảnh báo.
Nguy cơ là chi tiêu công và nhu cầu duy trì thị trường nợ ổn định sẽ trở thành lực lượng chi phối chính sách tiền tệ, thay vì các yếu tố khác như tăng trưởng kinh tế hay lạm phát.
“Điều tôi thực sự lo ngại là chúng ta sẽ rơi vào câu chuyện ‘chi phối tài khóa’”, Bill Campbell, nhà quản lý quỹ tại DoubleLine Capital, nhận định, trong đó vay mượn và chi tiêu công tăng lên “lấn át” đầu tư tư nhân. Ông cảnh báo điều này có thể dẫn đến “quỹ đạo tăng trưởng thấp vĩnh viễn ... một tình trạng trì trệ dài hạn với tăng trưởng thấp và gánh nặng nợ khổng lồ”.
Với nhiều nhà đầu tư, tác động kinh tế tiêu cực từ việc tích lũy nợ công kéo dài là mối lo lớn hơn nguy cơ vỡ nợ trái phiếu chính phủ ở một nền kinh tế lớn.
“Chúng tôi không cho rằng kịch bản vỡ tung nợ là cơ sở chính”, Jamie Patton, quản lý quỹ trái phiếu tại TCW, nói. “[Nhưng] với tư cách là người nộp thuế và công dân Mỹ, tôi thực sự lo lắng”, bà nói thêm, mô tả Quốc hội ngày càng “kém khả năng” đưa ra các quyết định về thuế và chi tiêu. “Chúng ta đang đối mặt với một vấn đề lớn”.
Quốc An (Theo FT)
FILI - 19:00:00 13/06/2025
BMP - Cổ tức cao, hưởng lợi từ chiến tranh thương mại
Đôi nét về BMP
Nhựa Bình Minh (BMP) là doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất ống nhựa với thị phần dẫn đầu tại thị trường nội địa (27% vào cuối 2023), thị trường chính tập trung tại khu vực miền Nam. BMP có 4 nhà máy với tổng công suất đạt 150,000 tấn/năm.
Hoàn thành 27% kế hoạch năm sau 1Q2025
BMP ghi nhận doanh thu, LNST đạt lần lượt 1,383/287 tỷ VND trong 1Q2025 (+31%/24% YoY) nhờ (1) sản lượng tiêu thụ tăng 47% YoY trong kỳ sau khi tăng chiết khấu cho các đại lý trong tháng 03/2025 và (2) giá PVC resin trung bình trong 1Q2025 giảm 14% YoY.
Hoạt động xây dựng dân dụng hồi phục là động lực chính thúc đẩy sản lượng tiêu thụ trong 2025
Trong 1Q2025, sản lượng tiêu thụ ống nhựa ước tính tăng 30% YoY. Sẽ nâng ước tính sản lượng tiêu thụ toàn ngành trong 2025 lên 15% (so với 6% trong kỳ báo cáo gần nhất) sau khi dữ liệu tiêu thụ 3 tháng đầu năm vượt kỳ vọng. Tuy nhiên, kỳ vọng BMP sẽ tiếp tục duy trì chính sách chiết khấu cạnh tranh hơn so với năm trước để dành lại thị phần. Ước tính sản lượng tiêu thụ của BMP đạt 90,300/97,500 tấn trong 2025/2026 (+17%/8% YoY).
Điều chỉnh dự phóng biên lãi gộp nhờ triển vọng giá PVC resin tiếp tục duy trì ở vùng thấp tới 1H2026
Nâng dự phóng biên lãi gộp của BMP lên 42%/41% trong 2025/2026 trong bối cảnh giá PVC resin được dự báo tiếp tục duy trì ở vùng thấp, chịu tác động bởi (1) nhu cầu thấp tại Trung Quốc do thị trường Bất động sản hồi phục chậm và hoạt động sản xuất, xuất khẩu bị tác động bởi chiến tranh thương mại. Bên cạnh đó, (2) giá dầu được dự báo tiếp tục đi ngang ở vùng trung bình 65 USD/thùng tới 1H2026.
Tỷ suất cổ tức tiền mặt tương đối hấp dẫn
Tại vùng giá hiện tại, lợi suất cổ tức tiền của BMP ước tính đạt trung bình 9.5%/năm trong giai đoạn từ 2025 – 2027
Điểm nhấn đầu tư
Hoạt động xây dựng dân dụng quay trở lại tăng trưởng trong 2025 – 2027. Ước tính sản lượng tiêu thụ ống nhựa của BMP đạt 90,300/97,500 tấn trong 2025/2026 (+17%/8% YoY).
Giá PVC đầu vào được dự báo tiếp tục duy trì ở mức thấp từ giờ tới hết 1H2026. Nâng ước tính biên lãi gộp của BMP đạt 42%/41% trong 2025/2026.
Tỷ suất cổ tức tiền mặt tương đối hấp dẫn. Ở vùng giá hiện tại, Ước tính tỷ suất cổ tức tiền mặt của BMP đạt trung bình 9.5%/năm trong giai đoạn 2025 – 2027.
Thị trường Bất động sản và Xây dựng hồi phục tích cực, BMP cần tiếp tục duy trì chính sách chiết khấu cạnh tranh để dành lại thị phần
Từ đầu năm tới nay, thị trường Bất động sản và Xây dựng đã và đang cho thấy những tín hiệu hồi phục tích cực (chi tiết tại báo cáo ngành Bất động sản). Qua trao đổi với một vài doanh nghiệp trong ngành, kỳ vọng hoạt động xây dựng và nguồn cung sản phẩm sẽ tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn trong giai đoạn 2026 - 2027, hỗ trợ thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ ống nhựa trong trung hạn.
Trong 1Q2025, ước tính sản lượng tiêu thụ của thị trường ống nhựa đạt hơn 85,000 tấn (+30% YoY), thị phần của BMP trong kỳ đạt hơn 27% nhờ tăng chiết khấu cho đại lý sau giai đoạn Tết. Mức tăng trưởng ấn tượng trong 3 tháng đầu năm là cơ sở để nâng dự phóng tăng trưởng tiêu thụ toàn ngành trong 2025 lên 15% (so với mức 6% trước đó), phản ánh kỳ vọng nhu cầu tiêu thụ cải thiện mạnh mẽ nhờ hoạt động xây dựng bước vào chu kỳ tăng trưởng mới. Bên cạnh đó, kỳ vọng đề xuất cắt giảm thủ tục xin giấy phép xây dựng đối với công trình, nhà ở của người dân và các dự án đã có quy hoạch 1/500 sớm được thông qua, từ đó tạo cú hích nhẹ lên vòng quay tiêu thụ vật liệu xây dựng, bao gồm ống nhựa dân dụng trong trung hạn. Ước tính sản lượng tiêu thụ của BMP đạt 90,300/97,500 tấn trong 2025/2026 (tăng lần lượt 17%/8% YoY).
Giá PVC resin tiếp tục duy trì ở vùng thấp, điều chỉnh tăng dự phóng biên lãi gộp của BMP trong giai đoạn 2025 - 2026
Giá PVC tại Trung Quốc và Đông Nam Á được ghi nhận ở mức 643/700 USD/tấn (giảm 23%/14% YoY) trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ tại Trung Quốc được dự báo tiếp tục duy trì ở mức thấp do ảnh hưởng của (1) thị trường Bất động sản ảm đạm và (2) triển vọng xuất khẩu suy giảm do chiến tranh thương mại. Thực tế, chỉ số Caixin PMI đã giảm hai tháng liên tiếp (tháng 05/2025 đạt 48.3x), phản ánh số lượng đơn hàng thấp và rủi ro thu hẹp hoạt động sản xuất trong thời gian tới.
ACE có đầu tư BPM tại giá hiện tại không?
BMP - Cổ tức cao, hưởng lợi từ chiến tranh thương mại
Đôi nét về BMP
Nhựa Bình Minh (BMP) là doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất ống nhựa với thị phần dẫn đầu tại thị trường nội địa (27% vào cuối 2023), thị trường chính tập trung tại khu vực miền Nam. BMP có 4 nhà máy với tổng công suất đạt 150,000 tấn/năm.
Hoàn thành 27% kế hoạch năm sau 1Q2025
BMP ghi nhận doanh thu, LNST đạt lần lượt 1,383/287 tỷ VND trong 1Q2025 (+31%/24% YoY) nhờ (1) sản lượng tiêu thụ tăng 47% YoY trong kỳ sau khi tăng chiết khấu cho các đại lý trong tháng 03/2025 và (2) giá PVC resin trung bình trong 1Q2025 giảm 14% YoY.
Hoạt động xây dựng dân dụng hồi phục là động lực chính thúc đẩy sản lượng tiêu thụ trong 2025
Trong 1Q2025, sản lượng tiêu thụ ống nhựa ước tính tăng 30% YoY. Sẽ nâng ước tính sản lượng tiêu thụ toàn ngành trong 2025 lên 15% (so với 6% trong kỳ báo cáo gần nhất) sau khi dữ liệu tiêu thụ 3 tháng đầu năm vượt kỳ vọng. Tuy nhiên, kỳ vọng BMP sẽ tiếp tục duy trì chính sách chiết khấu cạnh tranh hơn so với năm trước để dành lại thị phần. Ước tính sản lượng tiêu thụ của BMP đạt 90,300/97,500 tấn trong 2025/2026 (+17%/8% YoY).
Điều chỉnh dự phóng biên lãi gộp nhờ triển vọng giá PVC resin tiếp tục duy trì ở vùng thấp tới 1H2026
Nâng dự phóng biên lãi gộp của BMP lên 42%/41% trong 2025/2026 trong bối cảnh giá PVC resin được dự báo tiếp tục duy trì ở vùng thấp, chịu tác động bởi (1) nhu cầu thấp tại Trung Quốc do thị trường Bất động sản hồi phục chậm và hoạt động sản xuất, xuất khẩu bị tác động bởi chiến tranh thương mại. Bên cạnh đó, (2) giá dầu được dự báo tiếp tục đi ngang ở vùng trung bình 65 USD/thùng tới 1H2026.
Tỷ suất cổ tức tiền mặt tương đối hấp dẫn
Tại vùng giá hiện tại, lợi suất cổ tức tiền của BMP ước tính đạt trung bình 9.5%/năm trong giai đoạn từ 2025 – 2027
Điểm nhấn đầu tư
Hoạt động xây dựng dân dụng quay trở lại tăng trưởng trong 2025 – 2027. Ước tính sản lượng tiêu thụ ống nhựa của BMP đạt 90,300/97,500 tấn trong 2025/2026 (+17%/8% YoY).
Giá PVC đầu vào được dự báo tiếp tục duy trì ở mức thấp từ giờ tới hết 1H2026. Nâng ước tính biên lãi gộp của BMP đạt 42%/41% trong 2025/2026.
Tỷ suất cổ tức tiền mặt tương đối hấp dẫn. Ở vùng giá hiện tại, Ước tính tỷ suất cổ tức tiền mặt của BMP đạt trung bình 9.5%/năm trong giai đoạn 2025 – 2027.
Thị trường Bất động sản và Xây dựng hồi phục tích cực, BMP cần tiếp tục duy trì chính sách chiết khấu cạnh tranh để dành lại thị phần
Từ đầu năm tới nay, thị trường Bất động sản và Xây dựng đã và đang cho thấy những tín hiệu hồi phục tích cực (chi tiết tại báo cáo ngành Bất động sản). Qua trao đổi với một vài doanh nghiệp trong ngành, kỳ vọng hoạt động xây dựng và nguồn cung sản phẩm sẽ tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn trong giai đoạn 2026 - 2027, hỗ trợ thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ ống nhựa trong trung hạn.
Trong 1Q2025, ước tính sản lượng tiêu thụ của thị trường ống nhựa đạt hơn 85,000 tấn (+30% YoY), thị phần của BMP trong kỳ đạt hơn 27% nhờ tăng chiết khấu cho đại lý sau giai đoạn Tết. Mức tăng trưởng ấn tượng trong 3 tháng đầu năm là cơ sở để nâng dự phóng tăng trưởng tiêu thụ toàn ngành trong 2025 lên 15% (so với mức 6% trước đó), phản ánh kỳ vọng nhu cầu tiêu thụ cải thiện mạnh mẽ nhờ hoạt động xây dựng bước vào chu kỳ tăng trưởng mới. Bên cạnh đó, kỳ vọng đề xuất cắt giảm thủ tục xin giấy phép xây dựng đối với công trình, nhà ở của người dân và các dự án đã có quy hoạch 1/500 sớm được thông qua, từ đó tạo cú hích nhẹ lên vòng quay tiêu thụ vật liệu xây dựng, bao gồm ống nhựa dân dụng trong trung hạn. Ước tính sản lượng tiêu thụ của BMP đạt 90,300/97,500 tấn trong 2025/2026 (tăng lần lượt 17%/8% YoY).
Giá PVC resin tiếp tục duy trì ở vùng thấp, điều chỉnh tăng dự phóng biên lãi gộp của BMP trong giai đoạn 2025 - 2026
Giá PVC tại Trung Quốc và Đông Nam Á được ghi nhận ở mức 643/700 USD/tấn (giảm 23%/14% YoY) trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ tại Trung Quốc được dự báo tiếp tục duy trì ở mức thấp do ảnh hưởng của (1) thị trường Bất động sản ảm đạm và (2) triển vọng xuất khẩu suy giảm do chiến tranh thương mại. Thực tế, chỉ số Caixin PMI đã giảm hai tháng liên tiếp (tháng 05/2025 đạt 48.3x), phản ánh số lượng đơn hàng thấp và rủi ro thu hẹp hoạt động sản xuất trong thời gian tới.
ACE có đầu tư BPM tại giá hiện tại không?


Tập đoàn SCG của Thái Lan vừa chính thức nắm toàn quyền sở hữu tại CTCP Sản xuất Nhựa Duy Tân, sau khi công ty con SCG Packaging Public Company Limited (SCGP) hoàn tất mua thêm 30% cổ phần còn lại với tổng giá trị giao dịch hơn 2.8 ngàn tỷ đồng.
Theo công bố thông tin ngày 09/06 từ phía SCGP, thương vụ được thực hiện bởi SCGP Rigid Packaging Solutions Pte. Ltd. (SCGPRPS) - công ty con do SCGP nắm 100% vốn - nâng tỷ lệ sở hữu của SCGPRPS tại Nhựa Duy Tân từ 70% lên 100%. Với giá trị giao dịch hơn 2.8 ngàn tỷ đồng, Nhựa Duy Tân được định giá hơn 9.4 ngàn tỷ đồng.
Động thái nằm trong chiến lược mở rộng của SCGP - đơn vị thành viên thuộc SCG, tập trung vào lĩnh vực bao bì tại Đông Nam Á, với Việt Nam là thị trường trọng điểm nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và dòng vốn đầu tư nước ngoài ổn định.
Nhựa Duy Tân được đánh giá là doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực bao bì nhựa cứng tại Việt Nam, chuyên cung cấp các sản phẩm có tính sáng tạo, bền vững và đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng. Công ty còn sở hữu danh mục sản phẩm mang thương hiệu riêng, biên lợi nhuận cao, góp phần tạo lợi thế cạnh tranh dài hạn.
Việc tăng sở hữu giúp SCGP thúc đẩy tính tích hợp trong chuỗi cung ứng bao bì, đồng thời tối ưu hóa hiệu quả hoạt động tại thị trường Việt Nam. Năm 2024, Nhựa Duy Tân đạt doanh thu khoảng 5.4 ngàn tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 578 tỷ đồng với tổng tài sản hơn 4.6 ngàn tỷ đồng.
Thương vụ mua lại lần này có quy mô tương đương 1.98% tổng tài sản hợp nhất của SCGP tính đến cuối quý 1/2025.
Trước đó, vào tháng 7/2021, SCGP từng chi hơn 3.6 ngàn tỷ đồng để mua 70% cổ phần Nhựa Duy Tân. Khoản thanh toán tiếp theo được thực hiện dựa trên kết quả kinh doanh giai đoạn 2020-2021, nhưng không vượt quá 6.4 ngàn tỷ đồng (cho việc sở hữu 100% vốn).
Thành lập từ năm 1987 với cơ sở ban đầu chỉ rộng 230m2 tại quận Tân Bình (TPHCM), Nhựa Duy Tân từng bước mở rộng quy mô với nhà máy tại quận Bình Tân năm 1997, tiếp đến là Bình Dương (2014) và Long An (2017). Công ty hiện cung cấp sản phẩm nhựa gia dụng và bao bì cho cả khách hàng doanh nghiệp và tiêu dùng, phân phối qua mạng lưới hơn 16,000 điểm bán trên toàn quốc.
SCGP thời gian qua liên tục tăng cường hiện diện tại Việt Nam. Năm 2020, Doanh nghiệp mua 94% cổ phần Bao bì Biên Hòa và đến cuối năm 2023 tiếp tục thâu tóm 70% vốn Starprint Việt Nam (SPV) - đơn vị chuyên bao bì carton cao cấp tại Đồng Nai. Tập đoàn SCG cũng đang sở hữu Nhựa Bình Minh (HOSE: BMP) thông qua công ty con chuyên mảng hóa chất SCG Chemicals (SCGC).
Nhựa Duy Tân hiện nằm trong nhóm bao bì tích hợp của SCGP - mảng đóng góp tới 75% tổng doanh thu của SCGP năm 2024, tương đương khoảng 80 ngàn tỷ đồng. Lợi nhuận trước loại trừ lợi ích liên quan của nhóm này khoảng 3 ngàn tỷ đồng, chiếm hơn một nửa tổng lợi nhuận của SCGP. Thị trường Việt Nam đóng góp 16% doanh thu cho SCGP trong năm qua, chỉ xếp sau Thái Lan (42%) và cao hơn Indonesia (14%).
Quý 1/2025, SCGP đạt doanh thu hợp nhất khoảng 26 ngàn tỷ đồng, giảm 5% so với cùng kỳ. Lợi nhuận ròng 718 tỷ đồng, giảm tới 48%.
Tử Kính
FILI - 13:42:02 11/06/2025
White Label
Data API
Web Plug-ins
Poster Maker
Affiliate Program
The risk of loss in trading financial instruments such as stocks, FX, commodities, futures, bonds, ETFs and crypto can be substantial. You may sustain a total loss of the funds that you deposit with your broker. Therefore, you should carefully consider whether such trading is suitable for you in light of your circumstances and financial resources.
No decision to invest should be made without thoroughly conducting due diligence by yourself or consulting with your financial advisors. Our web content might not suit you since we don't know your financial conditions and investment needs. Our financial information might have latency or contain inaccuracy, so you should be fully responsible for any of your trading and investment decisions. The company will not be responsible for your capital loss.
Without getting permission from the website, you are not allowed to copy the website's graphics, texts, or trademarks. Intellectual property rights in the content or data incorporated into this website belong to its providers and exchange merchants.
Not Logged In
Log in to access more features

FastBull Membership
Not yet
Purchase
Log In
Sign Up