Markets
News
Analysis
User
24/7
Economic Calendar
Education
Data
- Names
- Latest
- Prev












Signal Accounts for Members
All Signal Accounts
All Contests



U.K. Trade Balance Non-EU (SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
France HICP Final MoM (Nov)A:--
F: --
P: --
China, Mainland Outstanding Loans Growth YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
China, Mainland M2 Money Supply YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
China, Mainland M0 Money Supply YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
China, Mainland M1 Money Supply YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
India CPI YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
India Deposit Gowth YoYA:--
F: --
P: --
Brazil Services Growth YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
Mexico Industrial Output YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
Russia Trade Balance (Oct)A:--
F: --
P: --
Philadelphia Fed President Henry Paulson delivers a speech
Canada Building Permits MoM (SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
Canada Wholesale Sales YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
Canada Wholesale Inventory MoM (Oct)A:--
F: --
P: --
Canada Wholesale Inventory YoY (Oct)A:--
F: --
P: --
Canada Wholesale Sales MoM (SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
Germany Current Account (Not SA) (Oct)A:--
F: --
P: --
U.S. Weekly Total Rig CountA:--
F: --
P: --
U.S. Weekly Total Oil Rig CountA:--
F: --
P: --
Japan Tankan Small Manufacturing Outlook Index (Q4)A:--
F: --
P: --
Japan Tankan Large Non-Manufacturing Diffusion Index (Q4)A:--
F: --
P: --
Japan Tankan Large Non-Manufacturing Outlook Index (Q4)A:--
F: --
P: --
Japan Tankan Large Manufacturing Outlook Index (Q4)A:--
F: --
P: --
Japan Tankan Small Manufacturing Diffusion Index (Q4)A:--
F: --
P: --
Japan Tankan Large Manufacturing Diffusion Index (Q4)A:--
F: --
P: --
Japan Tankan Large-Enterprise Capital Expenditure YoY (Q4)A:--
F: --
P: --
U.K. Rightmove House Price Index YoY (Dec)A:--
F: --
P: --
China, Mainland Industrial Output YoY (YTD) (Nov)A:--
F: --
P: --
China, Mainland Urban Area Unemployment Rate (Nov)A:--
F: --
P: --
Saudi Arabia CPI YoY (Nov)A:--
F: --
P: --
Euro Zone Industrial Output YoY (Oct)--
F: --
P: --
Euro Zone Industrial Output MoM (Oct)--
F: --
P: --
Canada Existing Home Sales MoM (Nov)--
F: --
P: --
Euro Zone Total Reserve Assets (Nov)--
F: --
P: --
U.K. Inflation Rate Expectations--
F: --
P: --
Canada National Economic Confidence Index--
F: --
P: --
Canada New Housing Starts (Nov)--
F: --
P: --
U.S. NY Fed Manufacturing Employment Index (Dec)--
F: --
P: --
U.S. NY Fed Manufacturing Index (Dec)--
F: --
P: --
Canada Core CPI YoY (Nov)--
F: --
P: --
Canada Manufacturing Unfilled Orders MoM (Oct)--
F: --
P: --
U.S. NY Fed Manufacturing Prices Received Index (Dec)--
F: --
P: --
U.S. NY Fed Manufacturing New Orders Index (Dec)--
F: --
P: --
Canada Manufacturing New Orders MoM (Oct)--
F: --
P: --
Canada Core CPI MoM (Nov)--
F: --
P: --
Canada Trimmed CPI YoY (SA) (Nov)--
F: --
P: --
Canada Manufacturing Inventory MoM (Oct)--
F: --
P: --
Canada CPI YoY (Nov)--
F: --
P: --
Canada CPI MoM (Nov)--
F: --
P: --
Canada CPI YoY (SA) (Nov)--
F: --
P: --
Canada Core CPI MoM (SA) (Nov)--
F: --
P: --
Canada CPI MoM (SA) (Nov)--
F: --
P: --
Federal Reserve Board Governor Milan delivered a speech
U.S. NAHB Housing Market Index (Dec)--
F: --
P: --
Australia Composite PMI Prelim (Dec)--
F: --
P: --
Australia Services PMI Prelim (Dec)--
F: --
P: --
Australia Manufacturing PMI Prelim (Dec)--
F: --
P: --
Japan Manufacturing PMI Prelim (SA) (Dec)--
F: --
P: --
U.K. Unemployment Claimant Count (Nov)--
F: --
P: --
U.K. Unemployment Rate (Nov)--
F: --
P: --


No matching data
Latest Views
Latest Views
Trending Topics
Top Columnists
Latest Update
White Label
Data API
Web Plug-ins
Affiliate Program
View All

No data





Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dự kiến tiếp tục giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế Việt Nam những năm tới. Với các doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán Việt Nam, bức tranh hoạt động trong những năm qua có gì?
Hoạt động niêm yết chững lại từ năm 2017, các gương mặt cũ thiếu sức hút
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có 10 doanh nghiệp FDI; trong đó, 6 doanh nghiệp đang niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM , Công nghiệp Gốm sứ Taicera (TCR), Mirae (KMR), Thành Thành Công - Biên Hòa (SBT), Everpia (EVE), Siam Brothers Việt Nam (SBV); 1 doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) là Công nghiệp Tung Kuang (TKU); 3 doanh nghiệp giao dịch trên thị trường UPCoM gồm Quốc tế Hoàng Gia (RIC), Gạch men Chang Yih (CYC), Thực phẩm Quốc tế (IFS).
CTCP Thành Thành Công - Biên Hòa tiền thân là Công ty TNHH Mía Đường Bourbon Tây Ninh. Công ty thành lập năm 1995, là liên doanh giữa Tập đoàn Bourbon (Pháp), Liên hiệp Mía Đường II và Liên hiệp Mía Đường Tây Ninh, vốn đầu tư 95 triệu USD. Đến năm 2000, Mía Đường Bourbon Tây Ninh trở thành công ty 100% vốn nước ngoài sau khi 2 đối tác Việt Nam rút lui.
Năm 2007, Tập đoàn Bourbon đã chuyển nhượng một phần sở hữu và chính thức niêm yết cổ phiếu lên HOSE từ ngày 25/02/2008 với mã SBT.
Năm 2013, Công ty đổi tên thành CTCP Mía Đường Thành Thành Công Tây Ninh. Đến năm 2016 thì hoàn tất thương vụ sáp nhập với Đường Biên Hòa và đổi tên thành CTCP Thành Thành Công - Biên Hòa. Tính đến 31/12/2024, SBT có vốn chủ sở hữu hơn 7,621 tỷ đồng, 2 cổ đông lớn là CTCP Đầu tư Thành Thành Công (Đầu tư TTC) nắm 21.86% và Lengendary Venture Fund 1 (Singapore) nắm 16.43%. Trong đó, Đầu tư TTC là hạt nhân trong hệ sinh thái TTC Group của ông Đặng Văn Thành.
Trước đây, có 11 doanh nghiệp FDI niêm yết. Tuy nhiên, 4 trong số đó đã hủy niêm yết do hoạt động kinh doanh không hiệu quả, bao gồm RIC, CYC, IFS chuyển từ HOSE sang UPCoM và Full Power (FPC) hoàn toàn rời sàn chứng khoán.
Cách đây hơn 20 năm, Chính phủ đã ban hành Nghị định 38/2003/NĐ-CP, cho phép một số doanh nghiệp FDI niêm yết cổ phiếu lên sàn chứng khoán. Thực tế, việc niêm yết của các doanh nghiệp FDI đã trải qua nhiều giai đoạn, sôi động nhất là từ năm 2003 -2008 với 10 doanh nghiệp được chấp thuận chuyển đổi từ công ty TNHH sang CTCP và niêm yết. Doanh nghiệp FDI gần nhất niêm yết là SBV vào năm 2017, kể từ đó chưa ghi nhận thêm trường hợp nào niêm yết mới.
Xét theo nhóm ngành, vật liệu xây dựng và dệt may đóng góp 4 doanh nghiệp trên tổng số 10 doanh nghiệp FDI trên sàn.
Quá trình niêm yết chững lại, những gương mặt cũ cũng thể hiện sức hút không cao đối với nhà đầu tư. Tính trong năm gần nhất (22/02/2024 - 21/02/2025), thanh khoản bình quân mỗi phiên của các cổ phiếu này đa phần dưới mốc 10,000 cp, thậm chí CYC chỉ ở mức 33 cp. Các trường hợp có thanh khoản bình quân cao hơn là KMR hơn 36,000 cp, EVE hơn 74,000 cp và SBT vượt trội với hơn 2.4 triệu cp.
Tại thời điểm 31/12/2024, vốn hóa thị trường của 10 doanh nghiệp FDI trên sàn đạt gần 14,470 tỷ đồng, chỉ chiếm khoảng 0.2% vốn hóa toàn thị trường chứng khoán Việt Nam.
Bức tranh kinh doanh phân hóa
Theo thống kê của Bộ Tài chính, đến cuối năm 2023, trong khoảng 29,000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), có tới 16,292 doanh nghiệp báo lỗ; 18,140 doanh nghiệp lỗ lũy kế, tổng giá trị lỗ lũy kế gần 1 triệu tỷ đồng. Số tiền nộp ngân sách nhà nước trong năm 2023 cũng giảm gần 4,000 tỷ đồng so với năm 2022. Việc hơn 50% doanh nghiệp FDI lỗ được nhiều chuyên gia nhận định là một dấu hiệu đáng lo ngại.
Theo VietstockFinance, bắt đầu từ giai đoạn thị trường không ghi nhận thêm doanh nghiệp FDI niêm yết mới (2017) đến hết năm 2024, bức tranh kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán có sự phân hóa mạnh mẽ.
Trong 8 doanh nghiệp đã công bố số liệu kết quả kinh doanh lũy kế năm 2024, 5 doanh nghiệp có lãi, gồm SBT (lũy kế 4 quý gần nhất), IFS, TYA, TKU, KMR. Trong đó, SBT, TYA tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2023 và TKU chuyển lãi.
Lũy kế 4 quý gần nhất, SBT lãi ròng hơn 813 tỷ đồng, tăng 47%. Trong quý gần nhất, sản lượng tiêu thụ đạt gần 360 ngàn tấn đường, tăng 4% so với quý liền trước và tăng 11% so với cùng kỳ. Đặc biệt, kênh nội địa tăng trưởng 37%, nhờ vào đóng góp từ kênh công nghiệp (B2B) và kênh thương mại (trader).
TYA năm 2024 mang về lãi ròng gấp 81 lần, đạt gần 78 tỷ đồng, cao nhất kể từ năm 2020 và chấm dứt xu hướng suy giảm liên tục nhiều năm. Kết quả tích cực này được hỗ trợ bởi việc tiêu thụ sản phẩm tích cực, nhờ nhu cầu dây cáp điện trong xây xưởng và lắp đặt thiết bị sản xuất của đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lên, đồng thời kiểm soát hiệu quả giá PVC nguyên liệu đầu vào, giảm chi phí sản xuất và lãi vay ngân hàng.
Với TKU, sau khi lỗ gần 37 tỷ đồng trong năm 2023, Công ty đã nhanh chóng chuyển trạng thái sang lãi ròng hơn 60 tỷ đồng. Doanh nghiệp ngành nhôm này cải thiện biên lãi gộp 11.4 điểm phần trăm, lên gần 16.3%; đồng thời chi phí tài chính giảm hơn một nửa, nhờ giảm lãi vay và lỗ chênh lệch tỷ giá.
Với trường hợp của RIC và CYC, dù chưa có số liệu lợi nhuận lũy kế năm 2024, nhưng kết quả của các năm trước đó đã đủ phản ánh sự khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Trong đó, RIC lỗ liên tục từ năm 2019 còn CYC lỗ liên tục từ năm 2014.
Chịu tình cảnh trái ngược là 3 doanh nghiệp lỗ ròng trong năm 2024, gồm SBV và EVE chuyển lỗ, TCR tiếp tục lỗ. Xét trong chu kỳ dài hơn, các doanh nghiệp này cho thấy kết quả kinh doanh ngày càng kém hiệu quả.
SBV - doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chính là sản xuất dây PP, dây PE, dây thừng bện dùng trong nông ngư nghiệp - cho biết, đã đẩy mạnh phát triển thị trường quốc tế, tuy nhiên sản phẩm bán cho các khách hàng này đều mới và khác với sản phẩm truyền thống, quy trình sản xuất chưa quen, công nhân vận hành từng công đoạn chưa thành thạo, một số công đoạn phải gia công ngoài, một số nguyên liệu khan hiếm, chi phí sản xuất tăng cao dẫn đến lỗ ròng hơn 30 tỷ đồng. Đây cũng năm đầu tiên SBV chịu lỗ trong một năm tài chính, kể từ khi cổ phần hóa vào năm 2009.
Về phần EVE, doanh nghiệp ngành dệt may lỗ ròng gần 32 tỷ đồng. Doanh thu suy giảm 6%, chủ yếu kênh bán B2B - đơn hàng khách sạn, doanh nghiệp giảm 9%, do nhiều dự án khách sạn tại khu vực phía Nam tạm ngưng thi công; ngành hàng bông tấm giảm 9%, do tính cạnh tranh cao, sự thay đổi về chính sách thu thuế; ngành hàng khăn giảm 57%, do thu hẹp sản xuất để tập trung nguồn lực cho các ngành hàng có biên lợi nhuận cao hơn. Không những vậy, EVE phải đối mặt với biên lãi gộp giảm, lợi nhuận hoạt động tài chính đi xuống, các khoản chi cho bán hàng, quản lý doanh nghiệp tăng lên.
Trong khi đó, TCR đánh đấu năm thứ hai liên tiếp thua lỗ với hơn 61 tỷ đồng. Việc không ghi nhận doanh thu từ thoái vốn công ty con như cùng kỳ, giá bán giảm trừ chi phí vận chuyển cho khách hàng và hàng loạt chi phí (gas, điện) tăng lên khiến TCR lỗ nặng hơn so với năm 2023.
Còn FPC, bị hủy niêm yết trên HOSE vào năm 2011 do lỗ trong 3 năm liên tiếp (từ 2008-2010). Doanh nghiệp tiếp tục chuỗi lỗ ròng, gần nhất là 5 năm lỗ liên tiếp từ 2020-2024, kéo theo vốn chủ sở hữu âm gần 350 tỷ đồng tại thời điểm 31/12/2024.
Huy Khải
FILI - 10:00:00 28/02/2025
Vì sao các doanh nghiệp FDI vẫn ngại lên sàn chứng khoán Việt Nam?
Đã nhiều năm trôi qua, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa đón thêm một tân binh nào là doanh nghiệp FDI. Mặc dù cũng có le lói vài cái tên "đánh tiếng" nhưng đến nay vẫn “bặt vô âm tín”
Sau gần 20 năm cho phép doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) niêm yết trên sàn chứng khoán, số lượng doanh nghiệp FDI niêm yết trên sàn chưa nhiều và kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này không cao.
Hiện nhu cầu lên sàn của các doanh nghiệp FDI vẫn còn bởi mong muốn tăng vốn để tái đầu tư và mở rộng kinh doanh tại Việt Nam. Dẫu vậy, nhiều năm qua, họ vẫn chưa nhận được cái “gật đầu” từ các cơ quan quản lý.
DOANH NGHIỆP FDI “LÉP VẾ” TRÊN SÀN CHỨNG KHOÁN
Môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam tiếp tục được cộng đồng quốc tế đánh giá tích cực, nhiều dự án lớn trong lĩnh vực năng lượng, sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử... đã được đầu tư mới và mở rộng vốn trong thời gian vừa qua. Nhiều báo cáo và các trang thông tin quốc tế nhận định, Việt Nam là “thỏi nam châm” thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tuy nhiên, trái với không khí sôi động ở thị trường chung, dường như thị trường chứng khoán đang “thèm khát” cổ phiếu đến từ các doanh nghiệp FDI sau gần một thập kỷ không có đơn vị nào IPO.
Nhìn lại quá khứ, chứng trường Việt Nam đã từng “hồ hởi” đón một làn sóng các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp lên sàn trong giai đoạn 2003-2028. Đây là khoảng thời gian sau khi Nghị định 38/2003/NĐ-CP được ban hành cho phép một số doanh nghiệp FDI niêm yết cổ phiếu lên sàn chứng khoán sau khi chuyển đổi hình thức hoạt động từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần.
Theo đó, đã có 10 doanh nghiệp FDI tiên phong thực hiện niêm yết trên các Sở giao dịch chứng khoán ở Việt Nam, như: Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Taya Việt Nam (mã chứng khoán: TYA), Công ty Cổ phần Everpia (mã chứng khoán: EVE), Công ty Cổ phần Mirae (mã chứng khoán: KMR), Công ty Cổ phần Công nghiệp gốm sứ Taicera (mã chứng khoán: TCR), Công ty Cổ phần Tập đoàn Nagakawa (mã chứng khoán: NAG), Công ty Cổ phần Tung Kuang (mã chứng khoán: TKU), Công ty Cổ phần Thành Thành Công - Biên Hòa (mã chứng khoán: SBT), Công ty Cổ phần Gạch Men Chang Yih (mã chứng khoán: CYC), Công ty Cổ phần Quốc tế Hoàng Gia (mã chứng khoán: RIC), Công ty Cổ phần Full Power (mã chứng khoán: FPC).
Khi “làn sóng” này được bùng nổ, giới đầu tư kỳ vọng, đây là cơ hội giúp thị trường chứng khoán Việt Nam trở nên đa dạng, với nhiều sản phẩm. Từ đó, nhà đầu tư có thêm nhiều sự lựa chọn, thu hút thêm nhiều khách hàng mới là cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia.
Song, cái gì dễ đến thì cũng dễ đi, làn sóng này không kéo dài được lâu. Mãi đến năm 2017 mới có thêm một doanh nghiệp FDI niêm yết là Công ty Cổ phần Siam Brothers Việt Nam (mã chứng khoán: SBV). Như vậy, ngoài 11 doanh nghiệp FDI đã niêm yết nêu trên, đến nay, thị trường không có thêm một cái tên mới nào xuất hiện.
Tình trạng này xuất phát từ nhiều lý do nhưng theo giới phân tích, mấu chốt vẫn nằm ở vấn đề thiếu vắng cơ chế pháp lý để thực hiện. Bởi lẽ, sau khi Nghị định 38/2003 hết hiệu lực, vấn đề doanh nghiệp FDI niêm yết trên sàn chứng khoán không còn được nhắc đến trong các quy định pháp luật tiếp nối.
Thế nhưng, điều này không đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp FDI không có nhu cầu. Ngược lại, một số doanh nghiệp FDI đã bày tỏ nhu cầu, kiến nghị đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chỉ mới nhận được công văn phúc đáp yêu cầu chờ đợi quy định hướng dẫn.
Điển hình là việc Công ty mẹ Charoen Pokphand Foods (CPF, thuộc CP Group) đã chấp thuận cho phép CP Việt Nam thực hiện các thủ tục để niêm yết tại HOSE.
“Trong trường hợp được cơ quan quản lý chấp thuận, CP Việt Nam sẽ niêm yết tại HOSE", CPF nêu trong thông báo. Tuy nhiên, kể từ khi thông báo hồi tháng 4/2022 đến nay vẫn chưa có thêm thông tin gì mới về hoạt động này.
Trước đó, vào tháng 6/2019, Công ty Cổ phần Công nghiệp Ngũ Kim Fortress Việt Nam đã có công văn gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước kiến nghị về việc hướng dẫn thủ tục niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sau đó, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có Công văn phúc đáp số 6094/UBCK-GSĐC ban hành ngày 9/10/2019 với ba nội dung: pháp luật hiện hành không có quy định hạn chế việc niêm yết/đăng ký giao dịch cổ phiếu của doanh nghiệp FDI; Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp luật hiện thời chưa có hướng dẫn cụ thể; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đang phối hợp với các cơ quan hữu quan để ban hành văn bản hướng dẫn trong thời gian sắp tới. Thế nhưng cho đến nay, vấn đề này vẫn còn đang bỏ ngỏ.
Tương tự, một số doanh nghiệp FDI lớn cũng “đánh tiếng” muốn niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán tại Việt Nam như Seoul Metal Việt Nam, Công ty AEON… Tuy nhiên, tất cả đều đang ở trong trạng thái chờ cơ chế.
Đã có những lãnh đạo công ty có vốn đầu tư từ Đài Loan hay Hàn Quốc đã bày tỏ “bức xúc” về việc các quy định về niêm yết chứng khoán đối với doanh nghiệp FDI tại Việt Nam còn chưa rõ ràng và cụ thể.
Theo Luật sư Nguyễn Thanh Hải, Văn phòng Luật sư Hà Nội (Đoàn Luật sư Hà Nội), trước đây, các doanh nghiệp FDI khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần và niêm yết trên thị trường chứng khoán thì thực hiện theo Nghị định 38/2003/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp FDI sang công ty cổ phần và theo Quyết định 238/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay các văn bản trên đã hết hiệu lực, trong khi trong các văn bản pháp lý sau giai đoạn này không có quy định cụ thể về việc lên sàn của doanh nghiệp FDI. Do đó, cũng tạo nên một số rào cản khi doanh nghiệp FDI muốn niêm yết.
NỖI BĂN KHOĂN CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ
Câu chuyện thúc đẩy doanh nghiệp FDI niêm yết sàn chứng khoán cũng đã được xới lại tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển thị trường chứng khoán năm 2024 vào ngày 28/2/2024. Trong các đề xuất tại tham luận của mình, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc đã yêu cầu phải khẩn trương cho phép các doanh nghiệp FDI có điều kiện theo quy định pháp luật về chứng khoán được niêm yết trên sàn chứng khoán.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc
Đồng quan điểm, Tham tán công sứ Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam cũng cho rằng cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp FDI để cải thiện sự đa dạng của thị trường chứng khoán.
Trong bối cảnh phấn đấu để phát triển và nâng hạng thị trường chứng khoán cũng như kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại hội nghị vừa qua, việc tháo gỡ các rào cản và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài (trong đó có các doanh nghiệp FDI) tiếp cận thị trường là việc cần phải làm ngay và không thể trì hoãn.
Nói đi cũng phải nói lại, việc chậm trễ thiết lập một khuôn khổ toàn diện cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài niêm yết có lẽ còn nhiều nguyên nhân khác.
Thực tế, hầu hết các doanh nghiệp FDI niêm yết “đời đầu” đều thuộc nhóm doanh nghiệp cỡ nhỏ và vừa. Hoạt động kinh doanh sau nhiều năm vẫn không có sự lớn mạnh nhiều về vốn chủ sở hữu, trong khi một số cổ đông tổ chức lớn dần dần thoái vốn mạnh đã làm mất lòng tin cổ đông nhỏ lẻ .
Song song với đó, một số doanh nghiệp FDI đã xuất hiện một số tồn tại như hoạt động kinh doanh thua lỗ, giá cổ phiếu lao dốc, thậm chí có doanh nghiệp dính nghi vấn chuyển giá, tận dụng các ưu đãi về thuế để kéo dài lỗ lũy kế, gây những hệ lụy trong khâu quản lý. Điều này cũng tạo nên nỗi băn khoăn lớn và tư duy thận trọng của các nhà điều hành.
Lo ngại từ phía nhà điều hành là hoàn toàn có cơ sở, bởi nhìn vào những gì mà các doanh nghiệp FDI niêm yết trong giai đoạn trước có thể thấy việc thu hút vốn nước ngoài từ sàn chứng khoán là không hiệu quả.
Bên cạnh dấu hỏi về sự minh bạch, sự lo ngại về hiện tượng doanh nghiệp FDI lợi dụng thị trường chứng khoán để chiếm dụng vốn, hoặc thực hiện một chiến lược thoái lui, có nghĩa sau khi niêm yết, các cổ đông lớn sẽ bán hết phần vốn đầu tư và rút về nước.
Và chắc chắn những hành động này hướng tới một mục đích không tốt và gây thiệt hại cho nền kinh tế thì chắc chắn cơ quan quản lý không thể “gật đầu”. Trong khi đó, các giải pháp để kiểm soát các mối lo này chưa đủ chặt chẽ, nên không khó để hiểu được vì sao cơ quan quản lý chưa mặn mà đề xuất cơ chế cho phép các doanh nghiệp FDI đưa cổ phiếu lên sàn chứng khoán Việt Nam.
Bên cạnh đó, cũng có một vài chuyên gia nhận định, không thể phủ nhận khía cạnh tích cực khi những doanh nghiệp FDI tham gia vào thị trường chứng khoán có thể làm đa dạng hóa các sản phẩm, có thêm nhiều sự lựa chọn cho nhà đầu tư, từ đó thu hút thêm nhiều khách hàng mới là cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia.
Thế nhưng, nhìn vào bức tranh toàn diện hiện nay, có vẻ như Việt Nam đang tập trung nguồn lực vào mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp hơn là thông qua thị trường tài chính. Do đó, việc niêm yết của các doanh nghiệp FDI có lẽ là chưa cần thiết lúc này.
CỔ PHIẾU FDI CHƯA ĐỦ “QUYẾN RŨ” VỚI NHÀ ĐẦU TƯ
Không những gập ghềnh trên con đường niêm yết, doanh nghiệp FDI còn đối mặt với sự “lạnh lùng” của nhà đầu tư, khi bản thân những cổ phiếu FDI đời đầu đều có điểm chung là giao dịch nhỏ lẻ, giá trị cổ phiếu có phần èo uột, kinh doanh kém sắc.
Hiện nay, chỉ còn 8 doanh nghiệp FDI niêm yết, ba đơn vị đã bị hủy niêm yết do thua lỗ. Trong số các doanh nghiệp FDI từng bị huỷ niêm yết, Full Power (mã chứng khoán: FPC) là cái tên duy nhất “một đi không trở lại”. Sau khi bị huỷ niêm yết tháng 8/2011 do thua lỗ 3 năm liên tiếp, doanh nghiệp này đã chính thức có văn bản thông báo dừng đăng ký giao dịch trên UPCoM vào giữa năm 2012 và không còn có dấu hiệu muốn trở lại sàn chứng khoán.
Diễn biến cổ phiếu TYA trong những năm qua
Về số phận của những cổ phiếu ở lại, niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam từ năm 2006 với mức giá 34.000 đồng/cổ phiếu nhưng hiện tại, cổ phiếu TYA hiện đang có giá 10.350 đồng/cổ phiếu, tức mất đi 70% thị giá.
Cũng trong năm 2006, cổ phiếu TCR đã chính thức niêm yết trên sàn HOSE với mức giá của ngày giao dịch đầu tiên là 35.000 đồng/cổ phiếu. Đến nay, TCR giao dịch tại mức giá “cọng hành” 3.650 đồng/cổ phiếu, tương đương giảm gần 90% giá trị và đang trong diện cảnh báo.
Diễn biến cổ phiếu TCR trong những năm qua
Tình trạng tương tự cũng diễn ra với các cổ phiếu khác niêm yết cùng thời gian như RIC, TKU, KMR, EVE…
Bắt đầu niêm yết từ năm 2017 nhưng đến nay, cổ phiếu SBV của Siam Brothers Việt Nam đã giảm gần 78% giá trị từ 48.000 đồng/cổ phiếu xuống còn 10.750 đồng/cổ phiếu.
Hay “thảm” hơn là CYC của Gạch men Chang Yih khi chào sàn có giá 20.000 đồng/ cổ phiếu nhưng đến nay chỉ còn 4.100 đồng/cổ phiếu và thuộc trường hợp hạn chế giao dịch.
Diễn biến cổ phiếu CYC trong những năm qua
Sự thờ ơ với nhóm cổ phiếu này của các nhà đầu tư là điều dễ hiểu, bởi kết quả kinh doanh từng quý của các công ty này có thể đánh giá chung thông qua từ “bết bát”, nhiều đơn vị luôn duy trì tăng trưởng lợi nhuận là con số âm.
Theo nhiều chuyên gia tài chính cho biết, hoạt động kinh doanh chung của nhiều doanh nghiệp FDI thiếu tính ổn định, biến động khó lường và lợi nhuận qua từng năm hầu như không có sự đột phá khiến nhà đầu tư nản lòng, thanh khoản thu hẹp và dần bị lãng quên. Do đó, dù được các cơ quan quản lý chấp thuận niêm yết thì việc lọt vào “mắt xanh” của các nhà đầu tư cũng vô cùng khó.
Ghi lại lời chia sẻ của nhiều nhà đầu tư, các doanh nghiệp FDI muốn tăng thêm sức hấp dẫn cho cổ phiếu thì cần phải xuất phát từ công ty mẹ là những thương hiệu lớn, có uy tín trên thị trường quốc tế như Apple, Samsung, LG…
Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI phải minh bạch thông tin về tình hình tài chính, tình hình quản trị và hoạt động kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp FDI cần công bố đầy đủ, rõ ràng và chính xác các thông tin theo quy định công bố thông tin của doanh nghiệp niêm yết, như báo cáo tài chính, báo cáo quản trị, báo cáo thường niên, nghị quyết Hội đồng quản trị.
Các thông tin về chiến lược kinh doanh, hợp tác, đầu tư và tất cả các thông tin bất thường liên quan đến doanh nghiệp cũng cần được công bố rộng rãi để nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận.
Một điểm nữa, các doanh nghiệp FDI phải có kế hoạch hoặc cam kết hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trong khoảng thời gian dài. Đồng thời, các doanh nghiệp này cần có tình hình tài chính vững mạnh, cụ thể như lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh cốt lõi tăng trưởng qua các năm, có khoản vốn đầu tư vào Việt Nam lớn trên 100 triệu USD, có chiến lược và kế hoạch mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh và kế hoạch nâng vốn đầu tư tại Việt Nam trong tương lai.
Các doanh nghiệp FDI niêm yết trên sàn chứng khoán làm ăn ra sao trong quý 1/2024?
Ghi nhận tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp FDI niêm yết trên sàn chứng khoán cho thấy, trong khi một số công ty báo lãi khủng thì cũng không ít doanh nghiệp phải gánh khoản lỗ hàng tỷ đồng...
Hiện tại, số lượng doanh nghiệp FDI đã niêm yết trên sàn là 11 doanh nghiệp. Trong số này, hiện chỉ còn 8 doanh nghiệp niêm yết, 3 doanh nghiệp bị hủy niêm yết do thua lỗ (2 doanh nghiệp chuyển sang đăng ký giao dịch tại sàn UPCOM và 1 doanh nghiệp rút khỏi thị trường).
Trong số này, nhiều công ty báo lãi quý 1/2024 tăng trưởng vượt trội so với cùng kỳ, mặt khác cũng có không ít doanh nghiệp lại cho biết lợi nhuận sụt giảm mạnh do tình hình kinh doanh khó khăn, thậm chí báo lỗ.
ĂN NÊN LÀM RA
Theo báo cáo tài chính hợp nhất quý 3 niên độ 2023 – 2024, Công ty Cổ phần Thành Thành Công – Biên Hoà (TTC AgriS – mã chứng khoán: SBT), doanh nghiệp sản xuất mía đường đa quốc gia ghi nhận doanh thu thuần 6.159 tỷ đồng, tăng 7,9% so với cùng kỳ niên độ trước.
Trong kỳ, doanh thu tài chính giảm 1,3% xuống còn 300,5 tỷ đồng. Cùng với đó, chi phí bán hàng đạt 205,4 tỷ đồng và chi phí quản lý doanh nghiệp đạt 182,5 tỷ đồng, lần lượt giảm 32,5% và 11% so với cùng kỳ.
Kết quả, TTC AgriS báo lãi sau thuế 187,5 tỷ đồng, tăng 22,7%. Luỹ kế 9 tháng đầu niên độ 2023 – 2024, TTC AgriS thu về 19,5 tỷ đồng doanh thu và 581,8 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, lần lượt tăng 8,9% và 9,1%.
Cùng chiều doanh thu, chi phí tài chính cũng tăng mạnh là áp lực khiến lợi nhuận của công ty bị “bào mòn” đáng kể. Trong 3 quý đầu niên độ 2023 - 2024, TTC AgriS phải chi hơn 1.617 tỷ đồng cho chi phí tài chính, trong khi doanh thu tài chính chỉ mang về 1.128 tỷ đồng. Trong đó, phần chi phí lãi vay công ty phải trả là hơn 1.304 tỷ đồng, tăng 34,8% so với cùng kỳ niên độ trước; tương ứng mỗi ngày công ty phải trả hơn 4,8 tỷ đồng tiền lãi.
Tương tự, một doanh nghiệp FDI chuyên sản xuất thanh nhôm là Công ty Cổ phần Công nghiệp Tung Kuang (mã chứng khoán: TKU) ghi nhận doanh thu thuần tăng 12,3% lên mức 195,5 tỷ đồng trong quý 1/2024. Nhờ đó lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cải thiện đáng kể so với mức lỗ 5 tỷ đồng của quý 1/2023, đạt 14,6 tỷ đồng.
Điểm sáng trong bức tranh kinh doanh quý 1 của công ty còn đến từ chi phí tài chính giảm 71,8% so với cùng kỳ, đạt 1,8 tỷ đồng do lãi tiền vay và lỗ chênh lệch tỷ giá giảm mạnh. Sau khi trừ chi phí, Tung Kuang thu về 10,6 tỷ đồng lãi ròng, trong khi cùng kỳ lỗ 4,5 tỷ đồng.
Cũng có một kỳ kinh doanh “ăn nên làm ra” là Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Taya Việt Nam (mã chứng khoán: TYA). Theo đó, doanh thu thuần quý 1/2024 của công ty đạt hơn 367,1 tỷ đồng, giảm 2,9% so với cùng kỳ.
Tuy nhiên, các chi phí trong kỳ đều được tiết giảm như chi phí tài chính giảm 43,3%, đạt 6,4 tỷ đồng, chi phí quản lý doanh nghiệp cũng giảm từ 11 tỷ đồng xuống còn 10,7 tỷ đồng.
Nhờ đó, Cáp điện Taya báo lãi quý 1/2024 đạt 14,9 tỷ đồng, cao gấp 3,6 lần so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến ngày 31/3/2024, tổng tài sản của công ty đạt 1.055 tỷ đồng, trong đó phần lớn là tài sản ngắn hạn với 972,9 tỷ đồng, tài sản dài hạn chiếm 82,1 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu đạt 494,6 tỷ đồng, tăng 3,1% so với số đầu năm.
Ở lĩnh vực thực phẩm, ông chủ thương hiệu trà bí đao Wonderfarm – Công ty Cổ phần Thực phẩm Quốc tế (Interfood – mã chứng khoán: IFS) đã trở lại đầy mạnh mẽ sau khi xoá hết lỗ luỹ kế.
Theo đó, Interfood ghi nhận doanh thu thuần quý 1/2024 đạt 447,1 tỷ đồng, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước. Xét về cơ cấu, doanh thu từ nước giải khát đạt 369,8 tỷ đồng, chiếm 82,7% tổng doanh thu.
Sau khi trừ chi phí, Interfood lãi sau thuế 50 tỷ đồng trong quý đầu tiên của năm 2024, cao gấp 1,7 lần so với cùng kỳ năm 2023.
Bước sang năm 2024, Interfood đặt mục tiêu doanh thu thuần đạt 1.993 tỷ đồng, cũng là mức cao nhất từ khi hoạt động và lợi nhuận sau thuế đạt 192 tỷ đồng. Như vậy, kết thúc quý 1/2024, công ty đã hoàn thành 22,4% kế hoạch doanh thu và 26% mục tiêu lợi nhuận cả năm.
Không chỉ có sức khoẻ tài chính lành mạnh, Interfood còn được biết đến là doanh nghiệp chi trả trả cổ tức ở mức cao. Cụ thể, trong năm nay, công ty sẽ chi gần như toàn bộ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối tính đến ngày 31/12/2023 là 209 tỷ đồng để trả cổ tức cho cổ đông với tỷ lệ 24% bằng tiền. Sau khi xoá hết lỗ luỹ kế, đây là năm thứ 2 liên tiếp doanh nghiệp này mạnh tay chia cổ tức bằng tiền cho cổ đông.
KẾT QUẢ KINH DOANH ĐI LÙI
Là doanh nghiệp FDI đến từ Hàn Quốc chuyên sản xuất các sản phẩm chăn ga gối đệm, Công ty Cổ phần Everpia (mã chứng khoán: EVE) công bố báo cáo tài chính quý 1/2024 với doanh thu thuần đạt 167,4 tỷ đồng, tăng 11,8% so với cùng kỳ.
Trong đó, doanh thu bán chăn ga gối đệm và khăn lần lượt tăng 31% và 9% nhờ sự tăng trưởng tích cực tại cả 4 kênh phân phối: đại lý, đơn hàng khách sạn, xuất khẩu và bán online.
Trái lại, doanh thu bán bông tấm giảm 27% so với quý 1/2023 trước áp lực cắt giảm đơn hàng áo khoác dày từ các nhãn hàng và sự chuyển dịch đơn hàng sang các nước có chi phí nhân công rẻ hơn.
Mặc dù doanh thu tăng nhưng các chi phí trong kỳ đều ở mức cao khiến lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh giảm mạnh 70,6%, chỉ còn 2,4 tỷ đồng. Kéo theo đó, Everpia báo lãi sau thuế giảm từ 6,8 tỷ đồng cùng kỳ xuống mức 1,6 tỷ đồng trong quý 1/2024.
Theo giải trình của Everpia, việc triển khai các chương trình khuyến mại kích cầu mua sắm dịp Tết nguyên đán và thực hiện tăng lương cơ bản tối thiểu 7% theo quy định đã khiến tỷ trọng chi phí giá vốn và chi phí quản lý doanh nghiệp tăng. Đây là nguyên nhân khiến lợi nhuận quý 1/2024 giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước.
Cùng trong lĩnh vực kinh doanh chăn ga gối đệm, Công ty Cổ phần Mirae (mã chứng khoán: KMR) báo lãi sau thuế giảm gấp 9,1 lần cùng kỳ, chỉ đạt 518,9 triệu đồng trong quý 1/2024.
Cụ thể, doanh thu thuần của Mirae đã giảm 24,8% về còn 97,9 tỷ đồng. Khấu trừ chi phí, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh chỉ còn 885,7 triệu đồng, thấp hơn rất nhiều so với con số 5 tỷ đồng của quý 1/2023.
Giải trình về kết quả này, Mirae cho biết do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế và suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế diễn ra đồng thời ở nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới đã khiến cho sức tiêu thụ hàng hoá giảm, trong đó có ngành dệt may. Vì vậy, các đơn hàng của Mirae đã giảm đáng kể trong quý 1/2024, đây là nguyên nhân khiến lợi ròng của công ty suy giảm so với cùng kỳ.
Đáng buồn hơn, Công ty Cổ phần Siam Brother Việt Nam (mã chứng khoán: SBV), doanh nghiệp chuyên sản xuất dây PP, dây thừng bện dùng trong nông/ngư nghiệp đến từ Thái Lan còn ngậm ngùi báo lỗ 6,5 tỷ đồng quý đầu tiên của năm 2024.
Trong kỳ kinh doanh vừa qua, doanh thu thuần của doanh nghiệp này gần như đi ngang, đạt 90,7 tỷ đồng. Trong khi đó, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp lại tăng 19% và 7,3% so với cùng kỳ khiến lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh âm 6 tỷ đồng.
Ở thời kỳ hoàng kim 2016 – 2017, Siam Brothers được biết đến là doanh nghiệp có doanh thu và lợi nhuận đều đặn mức vài trăm tỷ đồng mỗi năm. Tuy nhiên thời gian gần đây, tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp này có chiều hướng sa sút hơn do thị trường ngư nghiệp trong nước gặp khó khăn.
Cùng chung cảnh ngộ thua lỗ, Công ty Cổ phần Công nghiệp Gốm sứ Taicera (mã chứng khoán: TCR) ghi nhận lợi nhuận sau thuế quý 1/2024 âm 17,8 tỷ đồng do lượng bán suy giảm nên doanh nghiệp phải sắp xếp lại sản xuất, khiến cho giá thành tăng ảnh hưởng đến giá vốn. Đây là nguyên chính làm cho công ty lỗ trong quý này.
CỔ PHIẾU THIẾU SỨC HÚT
Theo thống kê, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có hơn 1.500 doanh nghiệp niêm yết trên 3 sàn, tuy nhiên số lượng doanh nghiệp FDI niêm yết chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Kể từ giai đoạn 2003 – 2008, Chính phủ đã ban hành nghị định cho phép một số doanh nghiệp FDI niêm yết cổ phiếu lên sàn chứng khoán sau khi chuyển đổi hình thức hoạt động từ công ty TNHH sang công ty cổ phần, đã có 10 doanh nghiệp tiên phong lên sàn trong giai đoạn này. Đây được coi là một “làn gió mới” cho thị trường chứng khoán Việt Nam khi nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài gia nhập cuộc chơi.
Tuy nhiên những năm sau đó, thị trường chứng khoán Việt Nam dường như vắng bóng những doanh nghiệp FDI mới niêm yết trên sàn. Tính đến nay, số lượng doanh nghiệp FDI đã niêm yết cổ phiếu trên sàn chỉ dừng ở con số 11. Trong số này, hiện chỉ còn 8 doanh nghiệp niêm yết, 3 doanh nghiệp bị hủy niêm yết do thua lỗ (2 doanh nghiệp chuyển sang đăng ký giao dịch tại sàn UPCOM và 1 doanh nghiệp rút khỏi thị trường).
Số lượng thưa thớt, kết quả kinh doanh trồi sụt cùng thị giá lao dốc không phanh khiến cổ phiếu của các doanh nghiệp FDI giao dịch trên sàn chứng khoán không nhận được sự quan tâm từ phía nhà đầu tư.
Điển hình như cổ phiếu TCR của Gốm sứ Taicera "chào sàn" năm 2006 với mức giá 35.000 đồng/cổ phiếu. Tuy nhiên đến hiện tại, cổ phiếu này đang giao dịch quanh mức 3.520 đồng/cổ phiếu và đang trong diện cảnh báo, tương đương mất gần 90% giá trị kể từ khi niêm yết.
Diễn biến giá cổ phiếu TCR trong thời gian gần đây
Ngoài việc thị giá cổ phiếu thường xuyên trong tình trạng đi xuống, các doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán cũng có sức khoẻ tài chính không mấy ổn định khi hầu hết ghi nhận lợi nhuận bấp bênh, đặc biệt có những cái tên còn thường xuyên thua lỗ như RIC, CYC…
Thêm vào đó, thực tế việc “chứng trường” Việt thiếu vắng các doanh nghiệp FDI niêm yết mới trong thời gian gần đây đến từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu vẫn là do thiếu những cơ chế pháp lý.
Do đó, tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển thị trường chứng khoán năm 2024 diễn ra vào tháng 2/2024, Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, cần khẩn trương cho phép các doanh nghiệp FDI có điều kiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán được niêm yết trên sàn chứng khoán. “Bộ Kế hoạch và Đầu tư và lãnh đạo Chính phủ đã nhận được rất nhiều văn bản của các doanh nghiệp FDI đề nghị sớm triển khai nội dung này vì Luật Chứng khoán năm 2019 đã có hiệu lực từ 1/1/2021”, bà Ngọc phát biểu tại hội nghị.
Còn chịu ảnh hưởng dịch COVID, lợi nhuận quý 2 của TYA giảm 30%
CTCP Dây và Cáp Điện Taya Việt Nam (HOSE: TYA) công bố kết quả kinh doanh quý 2/2022 với doanh thu thuần 606 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 24 tỷ đồng, lần lượt giảm 8% và 30% so với cùng kỳ.
Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 2 và 6 tháng đầu năm 2022 của TYA. Đvt: Tỷ đồng
TYA cho biết doanh thu thuần quý 2 giảm do thị trường dây cáp điện vẫn bị tác động từ đại dịch COVID-19 chưa thể khôi phục hoàn toàn. Giá đồng giảm mạnh kể từ tháng 5/2022 làm tổn thất giảm giá hàng tồn kho khiến lợi nhuận sau thuế giảm 30%.
Tính chung 6 tháng đầu năm, Công ty có doanh thu 1,143 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 35 tỷ đồng, lần lượt giảm 6% và 21% so cùng kỳ.
Đến ngày 30/06/2022, TYA đang sở hữu tổng tài sản 1,220 tỷ đồng, tăng 9% so đầu năm. Giá trị tài sản tăng chủ yếu do các khoản phải thu ngắn hạn tăng 45%, lên 483 tỷ đồng.
Còn chịu ảnh hưởng dịch COVID, lợi nhuận quý 2 của TYA giảm 30%
CTCP Dây và Cáp Điện Taya Việt Nam (HOSE: TYA) công bố kết quả kinh doanh quý 2/2022 với doanh thu thuần 606 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 24 tỷ đồng, lần lượt giảm 8% và 30% so với cùng kỳ.
Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 2 và 6 tháng đầu năm 2022 của TYA. Đvt: Tỷ đồng
Nguồn: VietstockFinance
TYA cho biết doanh thu thuần quý 2 giảm do thị trường dây cáp điện vẫn bị tác động từ đại dịch COVID-19 chưa thể khôi phục hoàn toàn. Giá đồng giảm mạnh kể từ tháng 5/2022 làm tổn thất giảm giá hàng tồn kho khiến lợi nhuận sau thuế giảm 30%.
Tính chung 6 tháng đầu năm, Công ty có doanh thu 1,143 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 35 tỷ đồng, lần lượt giảm 6% và 21% so cùng kỳ.
Đến ngày 30/06/2022, TYA đang sở hữu tổng tài sản 1,220 tỷ đồng, tăng 9% so đầu năm. Giá trị tài sản tăng chủ yếu do các khoản phải thu ngắn hạn tăng 45%, lên 483 tỷ đồng.
Dây và Cáp điện Taya (TYA) chi 53,7 tỷ đồng trả cổ tức năm 2020
Ngày 16/6 tới đây, Công ty cổ phần Dây và Cáp điện Taya Việt Nam (mã chứng khoán TYA - sàn HOSE) sẽ chốt quyền nhận cổ tức năm 2020.
Theo đó, Công ty sẽ trả cổ tức bằng tiền tỷ lệ 17,5%, tương ứng cổ đông sở hữu 1 cổ phiếu sẽ được nhận 1.750 đồng. Thời gian thanh toán vào ngày 7/7. Với hơn 30,68 triệu cổ phiếu đang lưu hành, Công ty sẽ phải chi xấp xỉ 53,7 tỷ đồng trả cổ tức cho cổ đông.
Trong ĐHĐCĐ năm 2021, cổ đông đã có ý kiến về việc nâng mức cổ tức lên 19%. Tuy nhiên, Công ty khẳng định việc nâng cổ tức là khó khăn, do giá nguyên vật liệu sản xuất đầu vào như giá đồng, hạt nhựa PVC đang ở mức cao cần phải có nguồn thanh khoản. Ngoài ra, Công ty vẫn phải tiếp tục kế hoạch nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại cần có vốn lưu động dồi dào để đáp ứng nhu cầu thanh toán.
Lợi nhuận chưa phân phối chỉ giữ lại 20 tỷ đồng là không đủ, thậm chí Công ty cần phải vay thêm vốn từ ngân hàng. Trường hợp Công ty có lãi lớn năm 2021, Công ty sẽ chia cổ tức cao hơn cho cổ đông.
Năm nay, Công ty đặt kế hoạch kinh doanh với tổng doanh thu đạt 1.602,6 tỷ đồng, giảm 3,3% so với thực hiện năm 2020. Lợi nhuận sau thuế dự kiến đạt 75,4 tỷ đồng, tăng 5,5%. Kết thúc quý I, tuy doanh thu thuần đạt 554,3 tỷ đồng, tăng 40,1% so với cùng kỳ năm trước, nhưng lợi nhuận sau thuế chỉ đạt 9,37 tỷ đồng, giảm 34,6%.
Nguyên nhân lợi nhuận sụt giảm là do chi nhánh sản xuất của Công ty tại tỉnh Hải Dương phải tạm ngừng hoạt động sản xuất từ ngày 16/2 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 bùng phát.
Trên thị trường chứng khoán, tạm dừng phiên giao dịch sáng ngày 31/5, cổ phiếu TYA tăng 0,6% lên giá 17.000 đồng/CP, khối lượng giao dịch đạt 60.700 đơn vị.
TYA đóng cửa chi nhánh Hải Dương do dịch
Chi nhánh của CTCP Dây và Cáp Điện Taya Việt Nam (HOSE: TYA) tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, tạm ngưng hoạt động sản xuất kinh doanh từ ngày 16/02-02/03/2021.
Công ty cho biết việc đóng cửa chi nhánh do đại dịch Covid-19 hoành hành tại tỉnh Hải Dương và Quảng Ninh, tuân theo chính sách giãn cách xã hội của tỉnh và lời cảnh báo của Bộ Y tế.
Về kết quả kinh doanh mới nhất, TYA đem về 25 tỷ đồng lãi sau thuế trong quý 4/2020, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước. Công ty cho biết tỷ suất giá vốn hàng bán tại phân xưởng tại Hải Dương tuy xấp xỉ cùng kỳ những vẫn thấp hơn dự tính.
Tính chung cả năm 2020, TYA đem về 1,657 tỷ đồng doanh thu và 72 tỷ đồng lãi sau thuế, lần lượt thực hiện được 85% và 81% kế hoạch đề ra.
White Label
Data API
Web Plug-ins
Poster Maker
Affiliate Program
The risk of loss in trading financial instruments such as stocks, FX, commodities, futures, bonds, ETFs and crypto can be substantial. You may sustain a total loss of the funds that you deposit with your broker. Therefore, you should carefully consider whether such trading is suitable for you in light of your circumstances and financial resources.
No decision to invest should be made without thoroughly conducting due diligence by yourself or consulting with your financial advisors. Our web content might not suit you since we don't know your financial conditions and investment needs. Our financial information might have latency or contain inaccuracy, so you should be fully responsible for any of your trading and investment decisions. The company will not be responsible for your capital loss.
Without getting permission from the website, you are not allowed to copy the website's graphics, texts, or trademarks. Intellectual property rights in the content or data incorporated into this website belong to its providers and exchange merchants.
Not Logged In
Log in to access more features

FastBull Membership
Not yet
Purchase
Log In
Sign Up