行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值












VIP跟单
所有跟单
所有比赛



法国贸易账 (季调后) (10月)公:--
预: --
欧元区就业人数年率 (季调后) (第三季度)公:--
预: --
加拿大兼职就业人数 (季调后) (11月)公:--
预: --
前: --
加拿大失业率 (季调后) (11月)公:--
预: --
前: --
加拿大全职就业人数 (季调后) (11月)公:--
预: --
前: --
加拿大就业参与率 (季调后) (11月)公:--
预: --
前: --
加拿大就业人数 (季调后) (11月)公:--
预: --
前: --
美国PCE物价指数月率 (9月)公:--
预: --
前: --
美国个人收入月率 (9月)公:--
预: --
前: --
美国核心PCE物价指数月率 (9月)公:--
预: --
前: --
美国PCE物价指数年率 (季调后) (9月)公:--
预: --
前: --
美国核心PCE物价指数年率 (9月)公:--
预: --
前: --
美国个人支出月率 (季调后) (9月)公:--
预: --
美国五至十年期通胀率预期 (12月)公:--
预: --
前: --
美国实际个人消费支出月率 (9月)公:--
预: --
美国当周钻井总数公:--
预: --
前: --
美国当周石油钻井总数公:--
预: --
前: --
美国消费信贷 (季调后) (10月)公:--
预: --
中国大陆外汇储备 (11月)公:--
预: --
前: --
日本贸易账 (10月)公:--
预: --
前: --
日本名义GDP季率修正值 (第三季度)公:--
预: --
前: --
中国大陆进口额年率 (人民币) (11月)公:--
预: --
前: --
中国大陆出口额 (11月)公:--
预: --
前: --
中国大陆进口额 (人民币) (11月)公:--
预: --
前: --
中国大陆贸易账 (人民币) (11月)公:--
预: --
前: --
中国大陆出口额年率 (美元) (11月)公:--
预: --
前: --
中国大陆进口额年率 (美元) (11月)公:--
预: --
前: --
德国工业产出月率 (季调后) (10月)公:--
预: --
欧元区Sentix投资者信心指数 (12月)公:--
预: --
前: --
加拿大全国经济信心指数公:--
预: --
前: --
英国BRC同店零售销售年率 (11月)--
预: --
前: --
英国BRC总体零售销售年率 (11月)--
预: --
前: --
澳大利亚隔夜拆借利率--
预: --
前: --
澳联储利率决议
澳联储主席布洛克召开货币政策新闻发布会
德国出口月率 (季调后) (10月)--
预: --
前: --
美国NFIB小型企业信心指数 (季调后) (11月)--
预: --
前: --
墨西哥12个月通胀年率 (CPI) (11月)--
预: --
前: --
墨西哥核心CPI年率 (11月)--
预: --
前: --
墨西哥PPI年率 (11月)--
预: --
前: --
美国当周红皮书商业零售销售年率--
预: --
前: --
美国JOLTS职位空缺 (季调后) (10月)--
预: --
前: --
中国大陆M1货币供应量年率 (11月)--
预: --
前: --
中国大陆M0货币供应量年率 (11月)--
预: --
前: --
中国大陆M2货币供应量年率 (11月)--
预: --
前: --
美国EIA当年短期前景原油产量预期 (12月)--
预: --
前: --
美国EIA次年天然气产量预期 (12月)--
预: --
前: --
美国EIA次年短期原油产量预期 (12月)--
预: --
前: --
EIA月度短期能源展望报告
美国当周API汽油库存--
预: --
前: --
美国当周API库欣原油库存--
预: --
前: --
美国当周API原油库存--
预: --
前: --
美国当周API精炼油库存--
预: --
前: --
韩国失业率 (季调后) (11月)--
预: --
前: --
日本路透短观非制造业景气判断指数 (12月)--
预: --
前: --
日本路透短观制造业景气判断指数 (12月)--
预: --
前: --
日本国内企业商品价格指数月率 (11月)--
预: --
前: --
日本国内企业商品价格指数年率 (11月)--
预: --
前: --
中国大陆PPI年率 (11月)--
预: --
前: --
中国大陆CPI月率 (11月)--
预: --
前: --
意大利工业产出年率 (季调后) (10月)--
预: --
前: --


无匹配数据





Các ông lớn đầu ngành hồi phục, nhiều doanh nghiệp lỗ chuyển lãi, ngành xi măng quý 2/2025 báo cáo mức lợi nhuận cao nhất gần 3 năm, đạt 216 tỷ đồng, gấp 6.4 lần cùng kỳ.
Sau nhiều quý liên tiếp chật vật, nhóm 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC quý 2/2025 ghi nhận bước phục hồi rõ nét. Số liệu từ VietstockFinance cho thấy, lợi nhuận ròng toàn ngành đạt 216 tỷ đồng, gấp 6.4 lần cùng kỳ, mức cao nhất kể từ quý 3/2022. Doanh thu thuần đạt 6,158 tỷ đồng, tăng 4%, chạm đỉnh từ quý 1/2023.
Doanh nghiệp tăng trưởng bằng lần
Trong đó, có 5 doanh nghiệp tăng bằng lần, nổi bật nhất là Xi măng VICEM Hoàng Mai với lợi nhuận ròng hơn 7 tỷ đồng, gấp 27 lần cùng kỳ, cao nhất kể từ quý 3/2022. Kết quả này đến từ việc công ty thay một phần than cám bằng các nguyên liệu thay thế như vỏ cây, dăm gỗ, chất thải rắn, giúp giá clinker thu về tại nhà máy tăng thêm 130,000 đồng/tấn. Nửa đầu năm, HOM lãi gần 8 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ lỗ 40 tỷ đồng, thực hiện hơn nửa kế hoạch năm.
Xi măng Bỉm Sơn cũng báo lãi cao nhất 13 quý, đạt hơn 64 tỷ đồng, gấp 2.5 lần cùng kỳ, nhờ giá vốn giảm mạnh. Lũy kế 6 tháng, BCC lãi ròng hơn 5 tỷ đồng so với khoản lỗ gần 23 tỷ đồng cùng kỳ, nhưng mới thực hiện 6% kế hoạch năm.
"Ông lớn" Xi măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) lần đầu trở lại mốc lợi nhuận hơn trăm tỷ sau 11 quý ảm đạm, nhờ sản lượng tiêu thụ tăng, chi phí sản xuất được kiểm soát, giá nguyên liệu giảm và khoản thu phí hoàn vốn dự án xây dựng đường nối từ Nguyễn Duy Trinh vào khu công nghiệp Phú Hữu, TPHCM. Nửa đầu năm, HT1 lãi ròng hơn 103 tỷ đồng, gấp gần 5 lần cùng kỳ, đi được hơn nửa kế hoạch năm.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 2/2025 (Đvt: Tỷ đồng)
Nhiều doanh nghiệp lỗ chuyển lãi
Doanh thu không tăng, thị trường vẫn khó, nhưng nhờ xử lý chất thải và siết chặt chi phí, Xi măng VICEM Bút Sơn bất ngờ báo lãi quý 2 hơn 12 tỷ đồng, sau 10 quý liên tiếp chìm trong thua lỗ. Dù vậy, màn “quay xe” trong quý 2 vẫn chưa đủ để bù đắp cho kết quả yếu kém trong quý đầu năm. Lũy kế 6 tháng, BTS vẫn còn lỗ ròng hơn 16 tỷ đồng, nhưng mức lỗ này đã thu hẹp đáng kể so với khoản lỗ gần 96 tỷ đồng cùng kỳ.
Xi măng Quán Triều VVMI lãi gần 9 tỷ đồng quý 2, đảo chiều từ mức lỗ hơn 2 tỷ đồng cùng kỳ, nhờ sản lượng tiêu thụ tăng mạnh. Lũy kế 6 tháng, CQT lãi gần 7 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 9 tỷ đồng, thực hiện 76% kế hoạch năm.
CTCP Bê tông Phan Vũ Hà Nam lãi hơn 4 tỷ đồng, so với mức lỗ 11 tỷ đồng cùng kỳ, nhờ chi phí tài chính giảm 99% sau khi thoái vốn khỏi FECON Nghi Sơn và đẩy mạnh thu hồi công nợ. Nửa đầu năm, FCM lãi gần 9 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 9 tỷ đồng, dù vậy mới thực hiện được 26% kế hoạch năm.
KQKD nửa đầu 2025 của doanh nghiệp xi măng (Đvt: Tỷ đồng)
Tồn kho toàn ngành tính đến cuối quý 2 hơn 2,500 tỷ đồng, tăng 17% so với đầu năm. Riêng HT1 chiếm 28% tổng tồn kho toàn ngành, với hơn 693 tỷ đồng, trong đó giá trị thành phẩm tăng 22% lên hơn 342 tỷ đồng.
Cơ hội và rủi ro song hành cho nửa cuối 2025
Trong bối cảnh đầu tư công đang được đẩy mạnh, cùng với trợ lực từ các yếu tố vĩ mô, pháp lý, các doanh nghiệp xây dựng và vật liệu xây dựng sẽ được hưởng lợi, nhất là trong việc tiêu thụ sản phẩm, trong đó có xi măng.
Tổng sản lượng xi măng cả nước trong 6 tháng đầu năm gần 61 triệu tấn, tăng 62% so với cùng kỳ. Tiêu thụ xi măng hơn 54 triệu tấn, tăng 27%. Trong đó, tiêu thụ trong nước là điểm sáng với 37.6 triệu tấn, tăng 39%, chủ yếu đến từ việc đẩy mạnh đầu tư công, đặc biệt tại các công trình hạ tầng giao thông, thủy lợi và nhà ở xã hội.
Bộ Xây dựng dự báo nhu cầu tiêu thụ xi măng năm nay tăng 2-3% lên 95-100 triệu tấn, trong đó tiêu thụ nội địa 60-65 triệu tấn, xuất khẩu dự kiến 30-35 triệu tấn.
Tổng Công ty VICEM dự báo quý 3 và những tháng cuối năm 2025, nhu cầu tiêu thụ xi măng trong nước sẽ tiếp tục tăng do Chính phủ đẩy mạnh đầu tư công, đặc biệt trong lĩnh vực hạ tầng giao thông và xây dựng. Ngoài ra, nguồn cung bất động sản được kỳ vọng hồi phục khi các biện pháp tháo gỡ pháp lý bắt đầu tác động vào thị trường.
Tuy nhiên, mùa mưa bão dự báo đến sớm ở miền Bắc và miền Trung ảnh hưởng đến thi công, làm giảm nhu cầu tiêu thụ xi măng theo vùng. Cùng với đó, thị trường xi măng vẫn tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: mất cân đối về cung cầu, cạnh tranh về giá bán ngày càng gay gắt; xu hướng chuyển dịch nhu cầu từ xi măng bao sang xi măng rời, từ xi măng giá cao sang xi măng giá thấp dẫn đến làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thanh Tú
FILI - 10:00:00 15/08/2025
Nhiều doanh nghiệp niêm yết trên sàn UPCoM và HNX sẽ thực hiện chi trả cổ tức trong tháng 7
Nhiều doanh nghiệp niêm yết trên sàn UPCoM và HNX sẽ thực hiện chi trả cổ tức trong tháng 7 và đầu tháng 8/2025, với mức chia dao động từ 330 đồng đến 2.500 đồng/cổ phiếu. Tất cả đều chốt quyền vào ngày 7/7/2025 và ngày đăng ký cuối cùng là 8/7/2025.
Vào ngày 30/7/2025, Công ty cổ phần Đầu tư Bất động sản Taseco (UPCoM: TAL) sẽ trả cổ tức năm 2024 bằng tiền mặt với tỷ lệ 1.500 đồng/cổ phiếu. Ngày giao dịch không hưởng quyền là 7/7/2025 và ngày đăng ký cuối cùng là 8/7/2025. Trước đó, vào ngày 12/9/2024, TAL cũng đã trả cổ tức năm 2023 với tỷ lệ 15%, tương đương 1.500 đồng/cp. Ngày 21/7/2025, Công ty cổ phần Thiết bị (UPCoM: MA1) cũng trả cổ tức năm 2024 bằng tiền mặt 1.500 đồng/cp, với cùng ngày giao dịch không hưởng quyền và ngày đăng ký như trên.
Công ty cổ phần Xi măng Quan Triệu (UPCoM: CQT) vào ngày 1/8/2025 sẽ trả cổ tức năm 2024 bằng tiền 330 đồng/cp, cũng với ngày giao dịch và ngày đăng ký tương tự. Năm 2023, CQT đã trả cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ 8%, tương đương 800 đồng/cp vào ngày 1/10/2024.
Công ty Cổ phần Hàng tiêu dùng Masan (UPCoM: MCH) cũng có kế hoạch trả cổ tức đợt 1/2025 bằng tiền 2.500 đồng/cp vào ngày 16/7/2025. Trước đó, MCH đã có những đợt trả cổ tức rất cao, gồm 9.500 đồng/cp cho năm 2024 và 16.800 đồng/cp cho năm 2023.
Công ty Cổ phần Ống thép Việt Đức VGPIPE (HNX: VGS) sẽ trả cổ tức năm 2024 bằng cổ phiếu, với tỷ lệ 100:10, cùng ngày giao dịch và đăng ký như các công ty trên. Cuối cùng, Công ty Cổ phần Sông Đà 505 (HNX: S55) và Công ty Cổ phần Cảng Đoàn Xá (HNX: DXP) cũng sẽ trả cổ tức năm 2024 bằng tiền với tỷ lệ tương ứng là 1.000 đồng/cp và 500 đồng/cp, đồng thời chịu ảnh hưởng bởi ngày giao dịch không hưởng quyền và thời hạn đăng ký tương tự.







Quý 1/2025, dù một số doanh nghiệp đã thoát lỗ, bức tranh toàn ngành xi măng vẫn phủ gam màu xám. Tuy vậy, trong bối cảnh đầu tư công đang được đẩy mạnh và nhu cầu thị trường cải thiện, hy vọng đang nhen nhóm trở lại.
Ánh sáng le lói từ các doanh nghiệp nhỏ
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 1/2025, ngành vẫn đang đi qua những ngày giông gió. Tổng lỗ ròng 3 tháng đầu năm nay của nhóm vẫn còn 124 tỷ đồng, dù đã thu hẹp so với mức lỗ 215 tỷ đồng cùng kỳ năm ngoái.
Trong bức tranh nhiều mảng tối đó, một vài doanh nghiệp nhỏ lại rực sáng, điển hình như Xi măng La Hiên VVMI lãi hơn 2 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần cùng kỳ, nhờ sản lượng tiêu thụ cải thiện.
Thị trường bất động sản phục hồi, CTCP Khoáng sản FECON lãi ròng hơn 4 tỷ đồng, gấp 4.7 lần cùng kỳ. Trong khi Xi măng Yên Bình hưởng lợi từ việc giảm giá thành sản xuất, giúp Công ty lãi 6 tỷ đồng, tăng 39%.
Đáng chú ý, Xi măng VICEM Hoàng Mai sau 2 quý thua lỗ liên tiếp, đã có lãi nhẹ hơn 500 triệu đồng nhờ thị trường miền Trung khởi sắc và giá nguyên liệu đầu vào hạ nhiệt.
Nhiều ông lớn vẫn trong vòng xoáy lỗ
Trái ngược với tín hiệu tích cực từ nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, các ông lớn ngành xi măng vẫn đang loay hoay với các khoản lỗ.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 1/2025 (Đvt: Tỷ đồng)
Đứng đầu danh sách này là Xi măng Bỉm Sơn - tiếp tục lỗ gần 60 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 49 tỷ đồng. Xi măng VICEM Bút Sơn kéo dài chuỗi thua lỗ sang quý thứ 10 với gần 29 tỷ đồng.
Ông lớn Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) cũng lỗ hơn 9 tỷ đồng. Về vấn đề này, tại ĐHĐCĐ thường niên 2025, ông Nguyễn Quốc Thắng - Thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc HT1 cho biết: quý 1 hàng năm thường ghi nhận kết quả thấp do trùng kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, nhưng tình hình đã cải thiện đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái (lỗ 25 tỷ đồng).
Xi măng Sài Sơn cũng kém sắc khi từ lãi chuyển qua lỗ hơn 3 tỷ đồng. Công ty cho biết, đã và đang tìm mọi giải pháp tiết kiệm chi phí trong sản xuất, giảm giá bán để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường, điều này khiến lợi nhuận giảm.
Đến cuối quý 1, nhóm doanh nghiệp niêm yết ngành xi măng có tổng giá trị tồn kho hơn 2.4 ngàn tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm. Trong đó, tồn kho của HT1 chiếm 26%, với 614 tỷ đồng, giảm 5% so với đầu năm và chiếm 8% tổng tài sản; giá trị thành phẩm của HT1 hơn 255 tỷ đồng, giảm 9% so với đầu năm.
Kế hoạch lạc quan, kỳ vọng vào nửa sau năm 2025?
Dù 3 tháng đầu năm chưa nhiều tích cực, các doanh nghiệp xi măng vẫn lạc quan đặt kế hoạch tăng trưởng trong năm 2025.
HT1 hướng tới mục tiêu đầy thách thức với doanh thu hơn 7,162 tỷ đồng, tăng 4% so với năm 2024; lợi nhuận sau thuế 184 tỷ đồng, gấp 3 lần năm trước. Sản xuất xi măng và clinker hơn 10 triệu tấn, tiêu thụ gần 6.4 triệu tấn, tăng lần lượt hơn 7% và 5%.
Tổng Giám đốc HT1 cho rằng, sản lượng tiêu thụ trong quý 1 đạt trên 19% kế hoạch năm; bước sang quý 2 là mùa cao điểm của ngành xi măng, kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh. Công ty cũng đang áp dụng các biện pháp tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả vận hành. Mục tiêu lợi nhuận quý 2 là 123 tỷ đồng, nếu đạt được, sẽ là cú hích lớn cho cả năm.
BCC đặt kế hoạch doanh thu thuần gần 3,680 tỷ đồng, tăng 6%; lãi trước thuế 2.4 tỷ đồng, năm trước lỗ hơn 8 tỷ đồng. Clinker sản xuất năm nay dự kiến hơn 2.8 triệu tấn nhưng tiêu thụ chỉ 354 ngàn tấn.
Xi măng Bút Sơn đặt mục tiêu thoát lỗ với khoản lãi kỳ vọng gần 30 tỷ đồng, năm trước lỗ gần 202 tỷ đồng - mức lỗ nặng nhất sau hơn thập niên. Mục tiêu sản xuất clinker hơn 2.5 triệu tấn, nhưng tiêu thụ chỉ 300 ngàn tấn và phấn đấu tiêu thụ hết hơn 3 triệu tấn xi măng dự kiến sản xuất trong năm nay.
Ngay cả Xi măng Hoàng Mai, từng lỗ gần 70 tỷ đồng trong năm 2024, cũng đặt kế hoạch lãi 15 tỷ đồng trong năm nay. Sản lượng clinker gần 1.3 triệu tấn và tiêu thụ 170 ngàn tấn; còn xi măng tự sản xuất dự định tiêu thụ hết gần 1.6 triệu tấn.
Điểm chung trong chiến lược của các doanh nghiệp là đẩy mạnh tiêu thụ nội địa, tận dụng làn sóng đầu tư công, đồng thời kiểm soát chặt chi phí vận hành.
Cửa sáng từ đầu tư công và dư địa thị trường
Trong bối cảnh đầu tư công đang được đẩy mạnh, cùng với trợ lực từ các yếu tố vĩ mô, pháp lý, các doanh nghiệp xây dựng và vật liệu xây dựng sẽ được hưởng lợi, nhất là trong việc tiêu thụ sản phẩm, trong đó có xi măng.
Theo tính toán của Bộ Xây dựng, nhu cầu tiêu thụ xi măng trong năm 2025 sẽ tăng khoảng 2 - 3% so với năm 2024, đạt mức 95-100 triệu tấn. Trong đó, tiêu thụ nội địa dao động từ 60-65 triệu tấn, xuất khẩu dự kiến 30-35 triệu tấn.
TS. Lương Đức Long - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam - cho rằng: đầu tư công đang được Chính phủ thúc đẩy mạnh mẽ, nhất là đầu tư về hạ tầng giao thông, xây dựng; việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm xi măng vẫn có những tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, sự tăng trưởng trong việc tiêu thụ xi măng sẽ thấy rõ hơn trong nửa cuối năm 2025. Nhu cầu xi măng tại Việt Nam chưa đạt đỉnh, dự báo từ giờ đến năm 2031 sẽ đạt đỉnh. Như vậy, việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm xi măng vẫn còn dư địa tăng trưởng.
Tuy nhiên, các rủi ro bên ngoài vẫn cần được lưu tâm. Chủ tịch HT1 - Đinh Quang Dũng chia sẻ tại ĐHĐCĐ thường niên 2025 rằng, biến động thuế quan từ Mỹ có thể gây tác động gián tiếp tới Việt Nam, khi hàng xi măng Trung Quốc chuyển hướng tràn vào Đông Nam Á, làm gia tăng cạnh tranh. Ngoài ra, việc chuỗi cung ứng toàn cầu gián đoạn có thể ảnh hưởng đến giá nguyên liệu.
Suy cho cùng, ngành xi măng đang chuyển mình chậm rãi sau nhiều quý ngụp lặn. Những nỗ lực điều chỉnh chiến lược, siết chi phí và làn sóng đầu tư công có thể là chìa khóa mở ra giai đoạn hồi phục trong năm nay.
Tuy nhiên để quay lại thời kỳ vàng son, thay vì lạc quan, các doanh nghiệp xi măng cần một chiến lược thực thi hiệu quả, đặc biệt là khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Thanh Tú
FILI - 08:07:01 12/05/2025





Xoay sở trong khó khăn, tiêu thụ chậm, đối mặt chi phí tăng cao, một số doanh nghiệp xi măng đã phải chấp nhận giảm giá bán sản phẩm để bù đắp chi phí duy trì hoạt động.
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance, của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 3/2024, sau khi có lãi nhẹ trong quý 2 thì lại quay đầu báo lỗ hơn 64 tỷ đồng trong quý 3, cùng kỳ lỗ hơn 128 tỷ đồng; trong khi doanh thu tăng 5%, lên 5,084 tỷ đồng.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 3/2024
Trong 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn, chỉ có 1 doanh nghiệp lãi tăng, 4 giảm, 2 lỗ chuyển lãi, 1 lãi chuyển lỗ, còn lại 9 doanh nghiệp tiếp tục thua lỗ.
Doanh nghiệp duy nhất có lãi tăng trong quý 3 là CTCP Xi măng Sài Sơn S với lợi nhuận ròng hơn 5 tỷ đồng, gấp đôi cùng kỳ. Xi măng Sài Sơn cho biết, do nhà máy hoạt động ổn định, chi phí lãi vay giảm; đồng thời, Công ty đã tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường khiến lợi nhuận tăng. Sau 9 tháng, lãi ròng của SCJ tăng 51% so với cùng kỳ. Với kế hoạch lợi nhuận sau thuế hơn 11 tỷ đồng của năm, SCJ đã hoàn thành được 69%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 3/2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Nhờ sản lượng tiêu thụ xi măng tăng trong khi chi phí giảm đã giúp Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) lãi ròng quý 3 gần 23 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 10 tỷ đồng. Lợi nhuận ròng 9 tháng đạt gần 44 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 37 tỷ đồng; doanh thu giảm nhẹ 4%, về 5,041 tỷ đồng. So với kế hoạch năm trên nền thấp, HT1 đã vượt 89% mục tiêu lợi nhuận, còn doanh thu thực hiện được 72% kế hoạch và là doanh nghiệp sáng nhất trong 9 tháng đầu năm nay.
VICEM Thạch cao Xi măng T lãi ròng quý 3 gần 400 triệu đồng, cùng kỳ lỗ 800 triệu đồng. 9 tháng, TXM lãi hơn 1 tỷ đồng, giảm 53%. Tuy nhiên, Doanh nghiệp vẫn còn lỗ lũy kế hơn 6 tỷ đồng, tính đến cuối tháng 9.
TXM cho biết, tình hình sản xuất 9 tháng đầu năm gặp rất nhiều khó khăn, do thị trường bất động sản chưa phục hồi, cạnh tranh khốc liệt về giá bán, đặc biệt tại Thừa Thiên - Huế; các công trình xây dựng dân dụng mới ít được khởi công, các dự án chậm triển khai làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của Công ty. Ngoài ra, tiền thuê đất tăng đột biến khiến lợi nhuận thu được không bù đắp nổi chi phí.
Trong bối cảnh hầu hết doanh nghiệp cùng ngành thua lỗ thì việc duy trì được lợi nhuận ròng như CTCP Xi măng La Hiên VVMI C đạt 5 tỷ đồng hay CTCP Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh Q hơn 3 tỷ đồng cũng là nỗ lực đáng ghi nhận, dù so với cùng kỳ giảm lần lượt 44% và 92%.
Phần lớn doanh nghiệp vẫn đang vượt khó
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong 9 tháng đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Xi măng VICEM Bút Sơn B là doanh nghiệp lỗ nhiều nhất trong quý 3 với hơn 26 tỷ đồng, cũng là quý thua lỗ thứ 8 liên tiếp (từ quý 4/2022). Lũy kế 9 tháng, BTS lỗ ròng gần 122 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 64 tỷ đồng; trong khi doanh thu thuần gần 1,840 tỷ đồng, giảm 3%.
Xi măng VICEM Hoàng Mai H cũng lỗ hơn 11 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng, HOM mang về doanh thu thuần gần 1,204 tỷ đồng, giảm 5%; lỗ ròng hơn 51 tỷ đồng.
HOM cho biết, ngành xi măng vẫn đang đối mặt với khó khăn, do nguồn cung cao, trong khi thị trường trong nước và xuất khẩu tiếp tục cạnh tranh khốc liệt về giá, áp lực tồn kho sản phẩm, dư thừa năng lực sản xuất. Đồng thời, xu hướng dịch chuyển nhu cầu xi măng bao sang xi măng rời ngày càng tăng, làm giảm hiệu quả kinh doanh của Công ty, do giá trị thương hiệu gắn với xi măng bao.
Trong 9 tháng đầu năm, có 5 doanh nghiệp đạt doanh thu trên ngàn tỷ đồng gồm HT1, BCC, BTS, HOM và QNC. Trong đó, QNC có lãi giảm 63%, còn hơn 35 tỷ đồng; HT1 có lỗ chuyển lãi; còn lại 3 doanh nghiệp tiếp tục thua lỗ.
Top doanh nghiệp có doanh thu trên ngàn tỷ trong 9 tháng (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Tính đến cuối tháng 9, nhóm doanh nghiệp niêm yết ngành xi măng có tổng giá trị tồn kho hơn 2,500 tỷ đồng, giảm hơn 10% so với đầu năm. Trong đó, tồn kho của ông lớn HT1 chiếm hơn 30%, với gần 790 tỷ đồng - giảm 11% so với đầu năm; giá trị thành phẩm của HT1 gần 432 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm.
Ngành xi măng vẫn đang bất định?
Ngành xi măng vẫn đang đối mặt muôn vàn khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vì nhiều yếu tố như giá nhiên liệu, năng lượng tăng cao, đặc biệt là giá than cũng gây nhiều khó khăn cho hoạt động của ngành. Bên cạnh đó, tiêu thụ nội địa yếu do các dự án đầu tư công triển khai còn chậm, thị trường bất động sản chưa phục hồi rõ nét…
Năm 2024, thị trường nội địa dự kiến tiêu thụ khoảng 60-62 triệu tấn xi măng; trong khi cả nước hiện có 61 nhà máy xi măng đang hoạt động với tổng công suất thiết kế 117 triệu tấn/năm, năng lực sản xuất thực tế có thể đạt trên 130 triệu tấn/năm. Số liệu cho thấy, sản lượng tiêu thụ chỉ bằng 1/2 công suất thiết kế là sự lãng phí, chưa kể đến sự tồn tại của các nhà máy và đời sống của người lao động.
9 tháng đầu năm 2024, lượng tiêu thụ xi măng nội địa cũng chỉ xấp xỉ với năm ngoái và tiếp tục duy trì ở mức thấp; trong khi xuất khẩu giảm hơn 4%, ở mức 22.5 triệu tấn.
Xoay sở trong khó khăn, một số doanh nghiệp đã phải chấp nhận giảm giá bán sản phẩm để bù đắp chi phí duy trì hoạt động.
Thanh Tú
FILI
5 DN sắp trả cổ tức bằng tiền, cao nhất 20%
5 doanh nghiệp trên sàn chứng khoán sẽ thực hiện việc chi trả cổ tức bằng tiền cho cổ đông với các tỷ lệ hấp dẫn.
1. CTCP Cảng Rau Quả (Mã VGP):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 30/8/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2022: 6% (600 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 13/9/2024
2. CTCP Chế tạo Bơm Hải Dương (Mã CTB):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 30/8/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 20% (2.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 4/10/2024
3. CTCP KASATI (Mã KST):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 6/9/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 6% (600 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 30/9/2024
4. CTCP Bao bì đạm Phú Mỹ (Mã PMP):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 10/9/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 10% (1.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 25/9/2024
5. CTCP Xi măng Quán Triều - VVMI (Mã CQT):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 10/9/2024
- Tỷ lệ cổ tức 2023: 8% (800 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 1/10/2024





Sau 3 quý liên tục thua lỗ, ngành xi măng đã trở lại “mặt đất” khi có lãi trong quý 2/2024. Liệu đây có phải khởi đầu chu kỳ tăng trưởng trở lại của ngành xi măng?
Thời gian qua, do ảnh hưởng tình hình thế giới, chiến tranh Trung Đông ngày càng căng thẳng khó lường; trong khi thị trường bất động sản trong nước chưa thực sự khởi sắc, nguồn cung xi măng vượt xa so với nhu cầu; giá nguyên, nhiên liệu đầu vào vẫn ở mức cao. Tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò đã khiến nhiều Doanh nghiệp mảng này lao đao, chìm trong thua lỗ.
Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng từ quý 1/2022 - quý 2/2024
Số doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn
Theo thống kê, trong 17 doanh nghiệp xi măng đã công bố BCTC quý 2/2024, có 4 doanh nghiệp tăng lãi, 3 giảm, 2 lỗ chuyển lãi. Còn lại 8 doanh nghiệp đều thua lỗ với 2 doanh nghiệp lãi chuyển lỗ và 6 tiếp tục thua lỗ.
Tuy vẫn còn nhiều doanh nghiệp lỗ, nhưng số lượng doanh nghiệp báo lãi đã nhiều hơn quý đầu năm (chỉ duy nhất một doanh nghiệp báo lãi).
Dẫn đầu mức tăng trưởng là CTCP VICEM Thương mại Xi măng T với lãi ròng gần 2 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lũy kế 6 tháng, lãi ròng TMX lại giảm 43%, còn hơn 1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn S cũng lãi hơn 2 tỷ đồng trong quý 2, tăng 24%, nhờ nhà máy hoạt động ổn định, chi phí nguyên vật liệu đầu vào và chi phí lãi vay giảm do SCJ đã trả vốn trung hạn. Tuy nhiên, giống TMX, lãi ròng 6 tháng SCJ chỉ hơn 2 tỷ đồng, giảm 9%.
Bất chấp nhu cầu xi măng giảm, lãi ròng quý 2 của Xi măng La Hiên VVMI C vẫn tăng 10%, đạt hơn 12 tỷ đồng, nhưng lũy kế 6 tháng, giảm 41% còn 12 tỷ đồng.
Trong bối cảnh các doanh nghiệp cùng ngành ít nhiều có vài quý thua lỗ thời gian qua, riêng CLH đã ngược dòng với duy nhất một lần báo lỗ vào quý 3/2017 (hơn 2 tỷ đồng). CLH cho biết, thị trường bất động sản quý 2/2024 trầm lắng, nhu cầu xi măng suy giảm, mặt khác mưa nhiều nên sản lượng tiêu thụ giảm, đặc biệt giá bán sản phẩm cũng giảm. Tuy nhiên, Công ty đã đưa ra các giải pháp như tăng năng suất thiết bị, tiết kiệm chi phí trong sản suất. Bên cạnh đó, việc sửa chữa các thiết bị chính chủ yếu tập trung trong quý 3/2024, Công ty cũng tiết giảm chi phí tài chính nên giúp lợi nhuận tăng.
Ngoài các doanh nghiệp có lợi nhuận tăng trưởng, còn có thêm 2 cái tên lỗ chuyển lãi là Xi măng Bỉm Sơn B gần 26 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ hơn 5 tỷ đồng) và Xi măng Yên Bình V gần 9 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ gần 3 tỷ đồng).
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 2/2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Nhưng phần lớn vẫn đang bế tắc
Việc tiếp tục lỗ hơn 36 tỷ đồng trong quý 2/2024, Xi măng VICEM Bút Sơn B nối dài chuỗi thua lỗ lên quý thứ 7 liên tiếp (từ quý 4/2022).
Không khá hơn, Xi măng VICEM Hải Vân H cũng 5 quý liên tiếp (từ quý 2/2023) với khoản lỗ ròng gần 10 tỷ đồng. HVX cho biết, sản lượng tiêu thụ xi măng quý 2 giảm gần 48 ngàn tấn (trong đó, clinker là 27.8 ngàn tấn), tương ứng giảm 31% so với cùng kỳ là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận giảm.
Quý 2/2024 đánh dấu quý thứ 13 Xi măng Phú Thọ P thua lỗ (từ quý 1/2021), gần 9 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng lỗ 18 tỷ đồng. PTE cho biết, 2024 tiếp tục là một năm khó khăn đối với ngành xi măng, nhu cầu xi măng trên thị trường liên tục sụt giảm cùng với đó là sự cạnh tranh gây gắt đã khiến lợi nhuận giảm.
2 doanh nghiệp khác mới gia nhập nhóm là CTCP Khoáng sản FECON F lỗ ròng hơn 11 tỷ đồng và Xi măng Quán Triều VVMI C lỗ hơn 2 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm trước lãi lần lượt hơn 5 tỷ đồng và hơn 8 tỷ đồng.
Ông trùm xi măng Hà Tiên có kết quả khả quan hơn khi lãi ròng gần 46 tỷ đồng, giảm 22%. Lãi ròng 6 tháng hơn 21 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 27 tỷ đồng.
Tương tự, Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh Q cũng có lãi quý 2 hơn 27 tỷ đồng, giảm 23%. Nửa đầu năm, QNC lãi gần 33 tỷ đồng, giảm 41%.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong nửa đầu năm 2024 (Đvt: Tỷ đồng)
Kết quả quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đã nói lên phần nào các khó khăn, vướng mắc vẫn còn, tiếp tục bám lấy ngành xi măng. Điều này cũng không bất ngờ khi đã được các doanh nghiệp xi măng nhận định và dự báo trước với nhiều kế hoạch 2024 tiếp tục thua lỗ.
Điển hình như Xi măng Bỉm Sơn đưa kế hoạch 2024 lỗ sau thuế gần 159 tỷ đồng, Xi măng VICEM Hoàng Mai H có kế hoạch lỗ gần 104 tỷ đồng, BTS kế hoạch lỗ 111 tỷ đồng.
HT1 và SCJ có vẻ lạc quan hơn khi đặt mục tiêu lãi sau thuế lần lượt hơn 23 tỷ đồng, tăng 31% và hơn 11 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2023. QNC đặt lãi sau thuế đi lùi 57%, đạt 34 tỷ đồng.
Về sản lượng, phần lớn doanh nghiệp đều đặt kế hoạch sản xuất tăng trưởng. Trong đó, HT1 dự kiến sản xuất clinker gần 4.1 triệu tấn và xi măng 5.66 triệu tấn, lần lượt tăng 8% và 5% so với năm trước. Hay BCC đặt kế hoạch sản xuất clinker hơn 2.3 triệu tấn, tăng 35% và xi măng (bao gồm gia công) gần 3 triệu tấn, tăng 6%.
Chưa đủ để bắt đầu chu kỳ tăng trưởng mới
Theo Bộ Xây dựng, sản xuất clinker và xi măng sụt giảm lớn từ năm 2023 đến nay. Theo đó, tổng sản lượng sản xuất năm qua chỉ đạt 92.9 triệu tấn, tương ứng 75% tổng công suất thiết kế. Tổng sản lượng tiêu thụ 2023 đạt 87.8 triệu tấn, giảm 12% so với năm 2022.
Năm 2023, tiêu thụ xi măng trong nước chỉ đạt 56,6 triệu tấn, giảm hơn 16% năm 2022, đây là mức sụt giảm lớn nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực xi măng.
6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng tiêu thụ clinker và xi măng đạt khoảng 44 triệu tấn, tương đương cùng kỳ. Lượng clinker xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5.4 triệu tấn, gần bằng cùng kỳ năm 2023.
Sở dĩ, sản lượng xuất khẩu tiếp tục giảm là do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi, xi măng cũng bị dư thừa và dự báo sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường xuất khẩu như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi… Bên cạnh đó, chi phí cước vận tải biển tăng cao, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại phần lớn thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, tình hình tài chính của ngành gặp khó do các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn. Tiêu thụ chậm, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, khiến nhóm ngành xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ; chưa kể đến tình hình kinh tế thế giới đang khó lường, chiến tranh Trung Đông khắc nghiệt hơn.
Các thông tin trên cho thấy tương lai ngành xi măng vẫn đang bất định, là dấu chấm hỏi đang kiếm lời giải. Dù có nhiều doanh nghiệp có lãi hơn, nhưng như vậy là chưa đủ, chưa thể kết luận được là chu kỳ tăng trưởng mới cho triển vọng ngành xi măng thời gian tới.
Thanh Tú
FILI
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。