行情
新闻
分析
用户
快讯
财经日历
学习
数据
- 名称
- 最新值
- 前值












VIP跟单
所有跟单
所有比赛



南非零售销售年率 (10月)公:--
预: --
前: --
巴西IPCA通胀指数年率 (11月)公:--
预: --
前: --
巴西CPI年率 (11月)公:--
预: --
前: --
美国MBA抵押贷款申请活动指数周环比公:--
预: --
前: --
美国劳工成本指数季率 (第三季度)公:--
预: --
前: --
加拿大隔夜目标利率公:--
预: --
前: --
加拿大央行利率决议
美国当周EIA汽油库存变动公:--
预: --
前: --
美国EIA原油产量预测当周需求数据公:--
预: --
前: --
美国当周EIA俄克拉荷马州库欣原油库存变动公:--
预: --
前: --
美国当周EIA原油库存变动公:--
预: --
前: --
美国当周EIA原油进口变动公:--
预: --
前: --
美国当周EIA取暖油库存变动公:--
预: --
前: --
美国主要消费者信心指数 (PCSI) (12月)公:--
预: --
前: --
中国大陆M1货币供应量年率 (11月)--
预: --
前: --
中国大陆M0货币供应量年率 (11月)--
预: --
前: --
中国大陆M2货币供应量年率 (11月)--
预: --
前: --
俄罗斯CPI年率 (11月)公:--
预: --
前: --
美国点阵图利率预期-长期 (第四季度)公:--
预: --
前: --
美国点阵图利率预期-第一年 (第四季度)公:--
预: --
前: --
美国隔夜逆回购利率 FOMC利率下限 (隔夜逆回购利率)公:--
预: --
前: --
美国点阵图利率预期-第二年 (第四季度)公:--
预: --
前: --
美国预算余额 (11月)公:--
预: --
前: --
美国超额准备金率上限 FOMC利率上限 (超额准备金率)公:--
预: --
前: --
美国有效超额准备金率公:--
预: --
前: --
美国点阵图利率预期-当前 (第四季度)公:--
预: --
前: --
美国联邦基金利率目标公:--
预: --
前: --
美国点阵图利率预期-第三年 (第四季度)公:--
预: --
前: --
美联储公布利率决议及货币政策声明
美联储主席鲍威尔召开货币政策新闻发布会
巴西Selic目标利率--
预: --
前: --
英国三个月RICS房价指数 (11月)--
预: --
前: --
澳大利亚就业人数 (11月)--
预: --
前: --
澳大利亚全职就业人数 (季调后) (11月)--
预: --
前: --
澳大利亚失业率 (季调后) (11月)--
预: --
前: --
澳大利亚就业参与率 (季调后) (11月)--
预: --
前: --
土耳其零售销售年率 (10月)--
预: --
前: --
南非矿业产出年率 (10月)--
预: --
前: --
南非黄金产量年率 (10月)--
预: --
前: --
意大利季度失业率 (季调后) (第三季度)--
预: --
前: --
IEA月度原油市场报告
土耳其一周回购利率--
预: --
前: --
南非主要消费者信心指数 (PCSI) (12月)--
预: --
前: --
土耳其隔夜借贷利率 (12月)--
预: --
前: --
土耳其延迟流动性窗口操作利率 (12月)--
预: --
前: --
英国主要消费者信心指数 (PCSI) (12月)--
预: --
前: --
巴西零售销售月率 (10月)--
预: --
前: --
美国当周续请失业金人数 (季调后)--
预: --
前: --
美国出口额 (9月)--
预: --
前: --
美国贸易账 (9月)--
预: --
前: --
美国当周初请失业金人数 (季调后)--
预: --
前: --
加拿大进口额 (季调后) (9月)--
预: --
前: --
美国当周初请失业金人数四周均值 (季调后)--
预: --
前: --
加拿大贸易账 (季调后) (9月)--
预: --
前: --
加拿大出口额 (季调后) (9月)--
预: --
前: --
美国批发销售月率 (季调后) (9月)--
预: --
前: --
美国当周EIA天然气库存变动--
预: --
前: --
美国30年期国债拍卖平均收益率--
预: --
前: --
阿根廷CPI月率 (11月)--
预: --
前: --
阿根廷全国CPI年率 (11月)--
预: --
前: --
阿根廷12个月CPI年率 (11月)--
预: --
前: --


无匹配数据
Theo đánh giá mới nhất của Moody’s Ratings (Moody’s) vừa công bố, Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam được nâng xếp hạng tiền gửi dài hạn và xếp hạng nhà phát hành dài hạn từ B1 lên Ba3, đồng thời nâng xếp hạng tín nhiệm cơ sở (Baseline Credit Assessment – BCA) từ b2 lên b1.
Triển vọng ngân hàng tiếp tục được giữ ở mức Ổn định, phản ánh kỳ vọng các nền tảng tín dụng của MSB sẽ duy trì ổn định trong 12 – 18 tháng tới.
Theo báo cáo cập nhật của Moody’s, với phương pháp luận mới, tổ chức xếp hạng tín nhiệm có một số luận điểm hỗ trợ tích cực cho điểm xếp hạng của MSB ví dụ như: Moody’s đánh giá năng lực trả nợ trong dài hạn (solvency) nhờ tiềm năng tạo lợi nhuận ổn định của ngân hàng quan trọng hơn so với quy mô thanh khoản như trong phương pháp luận cũ; quy mô vốn, bộ đệm vốn được củng cố sẽ hỗ trợ tốt trong phòng ngừa các rủi ro của tổ chức tín dụng; mô hình kinh doanh tập trung hay đa dạng hóa nguồn thu được xem xét trong chấm điểm/tính toán rủi ro; và một số tiêu chí định tính được đưa vào mô hình chấm điểm xếp hạng trong phương pháp luận mới này…
Theo đó, chỉ số về nguồn vốn (Capital score) của MSB được cải thiện nhờ ngân hàng thực hiện chi trả cổ tức bằng cổ phiếu những năm gần đây, giúp củng cố cho bộ đệm vốn và giữ cho chỉ số vốn chủ sở hữu hữu hình trên tài sản có rủi ro (TCE/RWA) đạt mức 12.7% theo dữ liệu tài chính tại 30/6/2025 và thuộc nhóm cao trong ngành. Chất lượng của các tài sản có tính thanh khoản cao (trái phiếu Chính phủ mà ngân hàng đầu tư) là nhân tố hỗ trợ tích cực cho điểm xếp hạng MSB về tiêu chí thanh khoản. Ngoài ra, các yếu tố về Môi trường – Xã hội – Quản trị (ESG considerations) của MSB ở mức CIS-3, cho thấy cho thấy các rủi ro liên quan ESG không ghi nhận tác động lớn đến xếp hạng tín nhiệm của ngân hàng hiện tại.
Trong bối cảnh yêu cầu đánh giá khách quan trở nên khắt khe hơn, việc MSB được cải thiện đồng thời nhiều hạng mục trong ma trận chấm điểm tín nhiệm cho thấy nền tảng tài chính của ngân hàng không chỉ đáp ứng tiêu chuẩn mới, mà còn nổi bật trên một số khía cạnh so với mặt bằng chung.
Trong một vài năm trở lại đây, MSB tập trung củng cố an toàn vốn và thanh khoản, đảm bảo ngân hàng duy trì trạng thái chủ động trước biến động kinh tế. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) luôn được duy trì trên 12%, cao hơn mức 8% theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và phù hợp với quy mô bảng cân đối. Bên cạnh đó, theo số liệu tại ngày 30/9, nợ xấu (NPL) riêng lẻ của MSB ở mức 1.9%; tỷ lệ cho vay trên huy động (LDR) giảm từ 73.91% (quý 2) xuống 71.31% (quý 3); tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (MTLT) được kiểm soát ở mức 27.03%, đều đáp ứng tốt tiêu chí từ cơ quan quản lý.
Về cấu trúc nguồn vốn, 9 tháng đầu năm, tiền gửi khách hàng đạt gần 183,400 tỷ đồng, tăng 19% so với cuối 2024. Trong đó, tiền gửi không kỳ hạn (CASA) đạt hơn 51,000 tỷ đồng, ghi nhận tăng quý thứ 4 liên tiếp và chiếm 27.83% tổng huy động, nằm trong top đầu ngành ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn tăng 16%, đạt gần 132,360 tỷ đồng. Phát hành giấy tờ có giá đạt gần 26,100 tỷ đồng, tăng 23% so với cuối năm 2024. Kết quả trên cho thấy, MSB đang phát triển một nền tảng tiền gửi đa dạng và đảm bảo tối ưu chi phí vốn trong giai đoạn cạnh tranh mạnh trên thị trường huy động.
Việc Moody's nâng các hạng mục xếp hạng tín nhiệm có ý nghĩa quan trọng đối với MSB khi ngân hàng đang đẩy mạnh việc đa dạng hóa nguồn vốn trung – dài hạn, đặc biệt từ thị trường vốn quốc tế. Mức xếp hạng cao hơn giúp MSB nâng uy tín với các đối tác, tiếp cận nguồn vốn với chi phí hợp lý hơn và mở rộng phạm vi hợp tác với các định chế tài chính toàn cầu. Đồng thời, kết quả này cũng củng cố niềm tin của khách hàng và nhà đầu tư đối với ngân hàng, tạo thêm động lực để MSB đẩy mạnh chiến lược tăng trưởng, hướng tới một mô hình hoạt động an toàn, hiệu quả hơn và phù hợp với các chuẩn mực quản trị quốc tế.
Đại diện MSB chia sẻ: “Kết quả đánh giá từ Moody's là sự ghi nhận khách quan cho những nỗ lực liên tục của MSB trong việc hoàn thiện năng lực tài chính. Chúng tôi xem đây là một bước tiến quan trọng, đồng thời là động lực để MSB tiếp tục nâng cao chất lượng vận hành và hiệu quả kinh doanh, nhằm đem đến sự an tâm và tin cậy cao nhất cho khách hàng và đối tác.”
Với nền tảng đã được củng cố, MSB tiếp tục hướng tới chiến lược tăng trưởng thận trọng, chú trọng hiệu quả và bền vững về chất lượng, đồng thời đảm bảo duy trì vị thế cạnh tranh trong nhóm ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam.
Đánh giá | Xếp hạng trước đây | Xếp hạng được cập nhật ngày 26/11/2025 |
Triển vọng | Ổn định | Ổn định |
Xếp hạng rủi ro đối tác (Counterparty Risk Rating) | Ba3 | Ba3 |
Tiền gửi ngân hàng (Bank Deposits) | B1 | Ba3 |
Đánh giá tín dụng cơ sở (Baseline Credit Assessment) | b2 | b1 |
Đánh giá tín dụng cơ sở điều chỉnh (Adjusted Baseline Credit Assessment) | b2 | b1 |
Đánh giá rủi ro đối tác (Counterparty Risk Assessment) | Ba3(cr) | Ba3(cr) |
Xếp hạng nhà phát hành (Issuer Rating) | B1 | Ba3 |
Dịch vụ
Minh Tài
FILI - 13:30:00 28/11/2025
MỚI
19 cổ phiếu “vượt sóng” tăng trên 50% giữa thị trường ảm đạm
Kể từ khi VN-Index chạm mốc 1.800 điểm giữa tháng 10, thị trường đã giảm khoảng 140 điểm về dưới 1.660 điểm trong bối cảnh thanh khoản thấp và áp lực bán mạnh ở nhóm tài chính, đặc biệt VCI giảm 30% và VIX mất 42%.
Nhóm cổ phiếu Vingroup duy trì vai trò nâng đỡ, nhưng chưa đủ bù đắp.
Trong khi đó, 19 cổ phiếu penny vẫn tăng trên 50% trong một tháng, nổi bật như NVP (+230%), TVH (+143%), HHB (+130%) và DVT (+113%), nhưng hầu hết thanh khoản thấp.
Chỉ 6 mã tăng mạnh đồng thời thanh khoản cao gồm HID, VTB, VEC, KDM, HII và BCA.
HID tăng 95% nhờ kết quả kinh doanh quý II khả quan và dự án điện gió Halcom Hồng Đức 200 MW tại Quảng Trị; VTB và VEC tăng 78–77% nhờ hiệu ứng từ đấu giá cổ phần và kỳ vọng thay đổi chiến lược doanh nghiệp.

Bức tranh tổng thể hiện tại cho thấy thanh khoản hệ thống vẫn đang ổn định. Dù vậy, sự thận trọng trong điều hành là vô cùng cần thiết ở thời điểm này để duy trì biên độ an toàn tài chính và quan trọng hơn là giữ vững niềm tin của thị trường và người gửi tiền.
Tín dụng tăng mạnh hơn huy động
Dữ liệu từ VietstockFinance cho thấy, tính đến 30/09/2025, tổng dư nợ tại 28 ngân hàng trong hệ thống là hơn 13.68 triệu tỷ đồng, tăng 15% so với đầu năm.
Trong đó, NCB (NVB) tăng trưởng tín dụng mạnh nhất (+33%), tiếp sau đó là VPBank (VPB, +29%), Techcombank (TCB, +21%), MB (MBB, +20%) và TPBank (TPB, +18%), Nam A Bank (NAB, +18%)… Saigonbank (SGB) là ngân hàng duy nhất tăng trưởng tín dụng âm với mức -6%.
Tổng lượng tiền gửi khách hàng tại 28 ngân hàng là hơn 12.33 triệu tỷ đồng, tăng 10% so với đầu năm.
Tất cả ngân hàng trong hệ thống đều tăng trưởng tiền gửi so với đầu năm. Trong đó, ABB là ngân hàng thu hút lượng tiền gửi mạnh nhất (+31%), kế đó là NVB (+24%), NAB (+22%), VPB (+21%) và MSB (+19%).
Cho vay khách hàng và tiền gửi khách hàng tính đến 30/09/2025 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Tỷ lệ LDR tăng trở lại
Tín dụng tăng 15% trong khi huy động tăng 10%, khiến tỷ lệ cho vay trên huy động LDR (Loan to Deposit Ratio) tại thời điểm cuối quý 3 của các ngân hàng tăng trưởng trở lại. Tỷ lệ LDR bình quân của 28 ngân hàng vào cuối quý 3 là 93.51%, tăng mạnh so với mức 91.96% cuối quý 2 và cao hơn cả mức 92.58% của đầu năm.
Chỉ có 9/29 ngân hàng có tỷ lệ LDR giảm so với đầu năm, giảm mạnh so với 16 ngân hàng thời điểm cuối quý 2, cho thấy các ngân hàng đã tăng trưởng tín dụng mạnh hơn.
Tính đến 30/09/2025, có 7 ngân hàng đạt tỷ lệ LDR dưới 85%. Có 4 ngân hàng đưa tỷ lệ này vượt mức 100%, gồm: VPB (129.55%), VIB(111.24%), SeABank (SSB, 110.34%) và VietinBank (CTG, 101.68%).
Tỷ lệ LDR của các ngân hàng tính đến 30/09/2025Nguồn: VietstockFinance
Áp lực lên thanh khoản
PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân - Giảng viên cấp cao, Đại học Kinh tế TPHCM nhận định, tỷ lệ LDR quý 3 đã tăng lên so với cuối quý 2 và cả thời điểm đầu năm, có thể đang gây áp lực lên thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Không chỉ gây áp lực, đây còn là lý do trực tiếp và căn bản nhất lý giải cho việc lãi suất huy động đã tăng trở lại trong thời gian gần đây, dù trước đó đã giảm sâu.
Chúng ta cần hiểu rõ bản chất của chỉ số LDR. Tỷ lệ này đo lường mức độ mà ngân hàng dùng vốn huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế để cho vay. Khi tỷ lệ LDR tăng lên, điều đó có nghĩa là tốc độ tăng trưởng tín dụng đang cao hơn tốc độ tăng trưởng huy động vốn.
Việc các ngân hàng cho vay nhiều hơn chắc chắn sẽ gây áp lực lên dự trữ thanh khoản. Tuy nhiên, áp lực lớn nhất không chỉ đến từ rủi ro thanh khoản nội tại mà còn đến từ quy định pháp lý.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định mức trần LDR (85% đối với các ngân hàng thương mại) như một trong những chỉ số an toàn hoạt động. Khi ngân hàng cho vay nhiều, khiến tỷ lệ LDR tiến sát ngưỡng trần quy định, có thể sẽ phải giảm tốc độ cho vay (điều này không ngân hàng nào mong muốn vì làm giảm lợi nhuận), hoặc phải tăng cường huy động vốn vào để cân đối lại tỷ lệ.
Để tăng huy động, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, công cụ nhanh và hiệu quả nhất chính là tăng lãi suất tiền gửi để thu hút dòng tiền nhàn rỗi từ người dân và doanh nghiệp. Do đó, việc LDR tăng cao đã tạo ra áp lực và buộc các ngân hàng phải tham gia vào cuộc đua tăng lãi suất huy động. Động thái này vừa giúp các ngân hàng có thêm vốn để cho vay, đồng thời vẫn đảm bảo tuân thủ các hệ số an toàn vốn và thanh khoản theo quy định.
Ông Nguyễn Quang Huy - CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường đại học Nguyễn Trãi cho rằng, tỷ lệ LDR tăng trở lại là tín hiệu của phục hồi tín dụng, nhưng đồng thời cũng là lời nhắc nhở về yêu cầu phải quản trị thanh khoản chặt chẽ hơn.
Con số LDR tăng từ 91.96% vào cuối quý 2 lên 93.51% vào cuối quý 3 là minh chứng cho thấy "vòng quay vốn tín dụng đã thực sự khởi động lại".
Trong giai đoạn trước, các ngân hàng có thể đã huy động được vốn nhưng lại gặp khó khăn trong việc cho vay (tín dụng tăng trưởng chậm), khiến vốn bị "tồn đọng". Tỷ lệ LDR tăng lên cho thấy lượng vốn này đã bắt đầu được đưa ra nền kinh tế hiệu quả hơn. Sau thời gian dài, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và người dân đang phục hồi.
Tuy nhiên, ông Huy cũng đặc biệt nhấn mạnh đến mặt thách thức. Khi tỷ lệ LDR tiến gần đến mốc 95%, áp lực về thanh khoản chắc chắn sẽ bắt đầu xuất hiện. Có thể sẽ không dàn đều ra toàn hệ thống ngay lập tức, mà mang tính "cục bộ". Một số ngân hàng thương mại, đặc biệt là những ngân hàng đã đẩy mạnh cho vay nhanh trong quý vừa qua, sẽ bắt đầu cảm thấy "căng" về nguồn vốn và phải điều chỉnh để cân đối lại.
Khi áp lực này xuất hiện, các ngân hàng sẽ buộc phải triển khai các biện pháp nghiệp vụ để đảm bảo an toàn thanh khoản và tuân thủ quy định.
Tăng cường huy động là giải pháp nền tảng nhất. Các ngân hàng sẽ phải đẩy mạnh huy động vốn, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn (vốn có tính ổn định cao) để cân đối lại với các khoản cho vay dài hạn, thường dẫn đến việc tăng lãi suất huy động.
Các ngân hàng cũng sẽ tích cực hơn trong việc phát hành giấy tờ có giá (chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu...) để huy động vốn từ thị trường cấp 2.
Trong ngắn hạn, các ngân hàng sẽ phải tận dụng linh hoạt kênh liên ngân hàng (vay mượn lẫn nhau) và các công cụ hỗ trợ từ thị trường mở (OMO) của NHNN để bù đắp các thiếu hụt thanh khoản tức thời.
Theo ông Huy, bức tranh tổng thể hiện tại cho thấy thanh khoản hệ thống vẫn đang ổn định. Dù vậy, sự thận trọng trong điều hành là vô cùng cần thiết ở thời điểm này để duy trì biên độ an toàn tài chính, và quan trọng hơn là giữ vững niềm tin của thị trường và người gửi tiền.
Cát Lam
FILI - 10:00:00 19/11/2025

Tín dụng hồi phục ở mức cao và dự báo sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng tốt bởi nhu cầu vốn lớn từ khu vực bán lẻ và doanh nghiệp, từ sự lan toả của đầu tư công, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% năm 2025. Ngành ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực tài chính, củng cố nền tảng vững chắc cho chiến lược tăng trưởng, đáp ứng dòng vốn cho nền kinh tế.
Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống cao nhất 15 năm
Trong 10 tháng đầu năm nay, hệ thống ngân hàng đã bơm thêm 2.1 triệu tỷ đồng ra nền kinh tế. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng này và mục tiêu tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng tín dụng cả năm nay có thể đạt 19-20%, là mức tăng cao nhất trong khoảng 15 năm trở lại đây.
Tính đến ngày 31/10, theo thống kê của CTCK Rồng Việt, toàn bộ 27 ngân hàng niêm yết đều công bố báo cáo tài chính quý 3/2025, hé lộ tổng dư nợ cho vay khách hàng của các ngân hàng đạt 13.6 triệu tỷ đồng, tăng 15% so với cuối năm 2024 (quy mô tín dụng đạt 13.8 triệu tỷ đồng, tăng 14.5%), phản ánh nhu cầu tín dụng tăng trưởng mạnh mẽ toàn hệ thống trong môi trường lãi suất ổn định.
Tuy nhiên, tăng trưởng huy động của các ngân hàng niêm yết đạt 11.4%. Đồng nghĩa, khoảng cách giữa tăng trưởng huy động - tăng trưởng tín dụng đã nới rộng lên mức -3.1 điểm phần trăm sau khi đã bắt kịp trong quý trước khoảng cách chỉ là 10 điểm phần trăm. Các con số này một phần lý giải xu hướng tăng vốn điều lệ của nhiều ngân hàng trong thời gian qua.
Trong sự kiện đầu tháng 11 vừa qua, TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni ước tính, nếu Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 10% từ nay đến 2030, thì quy mô tín dụng của nền kinh tế sẽ phải tăng gấp đôi. Khi đó, tài sản của hệ thống ngân hàng, vốn chủ sở hữu và các yếu tố liên quan cũng sẽ tăng tương ứng. Vai trò của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế là vô cùng quan trọng.
Ở nhóm tư nhân, nhiều ngân hàng cũng đã và đang có kế hoạch tăng vốn chủ yếu qua chia cổ tức bằng cổ phiếu hàng năm như: SHB, MBB, OCB, KLB, MSB, VietABank…
Mới đây, SHB công bố kế hoạch tăng vốn điều lệ thêm 7,500 tỷ đồng, dự kiện lên mức 53,442 tỷ đồng, thông qua: (1) phát hành hơn 90 triệu cp ESOP, (2) phát hành cho cổ đông hiện hữu hơn 459 triệu cp và (3) phát hành riêng lẻ 200 triệu cp cho nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Lợi thế nghiêng về ngân hàng có khả năng về vốn và hệ số an toàn CAR cao
Nhiều ý kiến chuyên gia đồng thuận, tăng trưởng tín dụng ở mức cao được đánh giá sẽ tiếp tục duy trì trong những năm tới, góp phần hỗ trợ nền kinh tế đạt mục tiêu tăng trưởng hai chữ số.
Trong đó, nhóm ngân hàng tư nhân được kỳ vọng sẽ tiếp đà tăng trưởng tín dụng, với mức tăng bình quân trên 20%/năm trong ba năm tới. Khi định hướng điều hành bằng hạn mức tăng trưởng tín dụng điều chỉnh theo hướng để các ngân hàng tăng trưởng dựa trên cơ chế thị trường, các ngân hàng có khả năng về vốn và hệ số an toàn vốn (CAR) cao sẽ có ưu thế.
Như trường hợp của SHB, sau khi tăng vốn thành công, vốn điều lệ của nhà băng này sẽ ở mức hơn 53,400 tỷ đồng, lên thêm một bậc lên TOP 4 ngân hàng tư nhân có quy mô vốn điều lệ lớn nhất trong hệ thống. SHB cũng là ngân hàng được biết đến thường xuyên duy trì hệ số CAR ở quanh trên 12%, vượt xa so với quy định tối thiểu 8%.
Nguồn vốn huy động được sẽ giúp SHB mở rộng quy mô cho vay, đáp ứng tốt các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động ngân hàng và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, song song với đẩy mạnh chuyển đổi với mục tiêu trở thành ngân hàng hiệu quả nhất, ngân hàng bán lẻ hiện đại hàng đầu khu vực.
Qua bức tranh kết quả kinh doanh quý 3/2025, SHB ghi nhận tăng trưởng tín dụng 15%, dòng vốn tín dụng chảy vào các lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế, đóng góp tăng trưởng đáng kể trong GDP. SHB cũng đạt kết quả kinh doanh ấn tượng trong 9 tháng đầu năm với lợi nhuận trước thuế đạt hơn 12,300 tỷ đồng, tăng 36% so với cùng kỳ năm trước và thực hiện 85% kế hoạch năm 2025.
Biên lợi nhuận (NIM) của Ngân hàng đang có xu hướng gia tăng từ 3.23% (quý 1/2025) lên 3.9% (quý 3/2025). Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) cũng tích cực, cải thiện từ 16.71% lên 19.23%.
Các con số trên cho thấy tăng trưởng bền vững của Ngân hàng, và kỳ vọng quý cuối năm có thể đẩy kết quả của SHB vượt kế hoạch năm 2025 đã đặt ra.
Cùng với tiềm năng tăng trưởng từ nội lực phát triển của ngân hàng, trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu SHB còn hấp dẫn nhà đầu tư khi được dự báo là một trong 28 ứng cử viên sáng giá cho danh mục FTSE Global All Cap - khi thỏa các tiêu chí về quy mô, thanh khoản và mức độ minh bạch thông tin theo chuẩn FTSE để được thêm vào rổ chỉ số toàn cầu. Đây là cơ hội để thu hút dòng vốn ngoại đến với cổ phiếu SHB, trong bối cảnh “room” ngoại của Ngân hàng vẫn đang còn nhiều dư địa.
Trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và toàn diện, SHB đang thướng đến mục tiêu trở thành Ngân hàng TOP 1 về hiệu quả; Ngân hàng Số được yêu thích nhất; Ngân hàng Bán lẻ tốt nhất đồng thời là Ngân hàng TOP đầu cung ứng nguồn vốn, sản phẩm tài chính dịch vụ với khách hàng doanh nghiệp chiến lược tư nhân và Nhà nước, có chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, hệ sinh thái, phát triển xanh. Tầm nhìn đến năm 2035, SHB trở thành Ngân hàng bán lẻ hiện đại, Ngân hàng xanh, Ngân hàng số trong TOP đầu của khu vực.
Minh Tài
FILI - 14:35:51 18/11/2025

CTCP Chứng khoán Kỹ Thương (TCBS, HOSE: TCX) công bố BCTC quý 3/2025 với lãi ròng gần 1,620 tỷ đồng, tăng 85% so với cùng kỳ, nâng lãi lũy kế 9 tháng đầu năm lên hơn 4,050 tỷ đồng, tăng 31%. Các hoạt động cốt lõi gồm tự doanh, môi giới và cho vay đều ghi nhận các mức tăng trưởng mạnh.
Hoạt động tự doanh của TCBS mang về hơn 1,022 tỷ đồng lợi nhuận trong quý 3, gấp 2.2 lần cùng kỳ năm trước, nhờ tăng mạnh lãi bán các tài sản tài chính ghi nhận thông qua lãi/lỗ (FVTPL), đặc biệt ở kênh cổ phiếu niêm yết và trái phiếu chưa niêm yết.
Hoạt động đáng chú ý khác là môi giới cũng mang về hơn 176 tỷ đồng lợi nhuận, gấp 2.3 lần cùng kỳ. Mảng cho vay cũng tăng trưởng mạnh mẽ, ghi nhận gần 1,015 tỷ đồng doanh thu, tăng 44% so với cùng kỳ năm trước.
Đôi chút áp lực xuất hiện khi hoạt động tài chính lỗ hơn 566 tỷ đồng, cao hơn mức lỗ gần 472 tỷ đồng cùng kỳ, chủ yếu do tăng chi phí lãi vay; chi phí quản lý tăng 25% lên gần 171 tỷ đồng.
Sau cùng, TCBS lãi trước và sau thuế lần lượt hơn 2,024 tỷ đồng và gần 1,620 tỷ đồng, tăng mạnh 85% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này cũng thúc đẩy lãi lũy kế 9 tháng đầu năm lên hơn 5,067 tỷ đồng trước thuế và hơn 4,050 tỷ đồng sau thuế, tăng 31% so với cùng kỳ.
Năm 2025, TCBS đặt mục tiêu lãi trước thuế 5,765 tỷ đồng, tăng 20% so với thực hiện năm 2024. Như vậy, sau 9 tháng đầu năm, Công ty đã thực hiện 88% kế hoạch lợi nhuận cả năm.
Kết quả kinh doanh quý 3 và lũy kế 9 tháng năm 2025 của TCBSĐvt: Tỷ đồng
Cuối quý 3/2025, quy mô tổng tài sản của TCBS đạt gần 81,773 tỷ đồng, tăng 54% so với đầu năm. Chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu là các khoản cho vay gần 41,713 tỷ đồng, tăng 61%; tài sản tài chính sẵn sàng để bán (AFS) gần 27,079 tỷ đồng, tăng 53%, chủ yếu là trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và cổ phiếu chưa niêm yết.
Quy mô tiền và tương đương tiền cũng đột biến từ gần 2,865 tỷ đồng lên gần 5,292 tỷ đồng, tương ứng tăng khoảng 85%.
Về nguồn vốn, TCBS vay nợ ngắn hạn gần 30,375 tỷ đồng, một số khoản vay đáng chú ý là tại VPBank 4,000 tỷ đồng, MSB 2,500 tỷ đồng và VIB 2,975 tỷ đồng. Công ty cũng vay hợp vốn bằng USD (Ngân hàng Cathay United làm đại lý), dư nợ quy đổi gần 5,870 tỷ đồng cuối quý 3.
Quy mô vốn góp chủ sở hữu tăng mạnh từ hơn 19,613 tỷ đồng lên hơn 23,113 tỷ đồng. Công ty đã thực hiện hai đợt tăng vốn đáng chú ý trong 9 tháng đầu năm, gồm chào bán hơn 118.8 triệu cp riêng lẻ và thương vụ chào bán lần đầu ra công chúng (IPO) 231.15 triệu cp tốn nhiều giấy mực.
Trong cơ cấu sở hữu sau đợt IPO ghi nhận hai cổ đông lớn, gồm ngân hàng mẹ Techcombank nắm 79.82% và Chủ tịch HĐQT Nguyễn Xuân Minh nắm 5.34%. Cơ cấu cũng ghi nhận 89 cổ đông nước ngoài nắm tổng cộng 6.38% vốn.
Sau IPO, dự kiến hơn 2.31 tỷ cp TCBS sẽ chính thức chào sàn HOSE từ ngày 21/10 sắp tới với giá tham chiếu 46,800 đồng/cp.
Huy Khải
FILI - 16:05:08 13/10/2025
Ngày 19/9/2025, Moody’s Ratings (Moody’s) một trong ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế hàng đầu đã công bố xếp hạng tín nhiệm với Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank, HOSE: SSB). Moody’s giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm ở mức Ba3 cho danh mục Tiền gửi dài hạn, xếp hạng đánh giá tín dụng cơ sở (BCA) ở mức B1 và đánh giá triển vọng phát triển Ổn định đối với SeABank.

Việc Moody’s giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm nhiều năm liên tiếp thể hiện sự ghi nhận rõ nét đối với nền tảng tài chính vững chắc, hiệu quả hoạt động cải thiện và triển vọng tăng trưởng bền vững của SeABank với những chiến lược phù hợp.
Theo báo cáo của Moody’s, SeABank hiện duy trì Tỷ lệ TCE (vốn/tài sản có rủi ro) ở mức 12.1% tính đến tháng 06/2025, thuộc nhóm cao nhất trong số các ngân hàng được Moody's xếp hạng tại Việt Nam. Chất lượng tài sản cũng được giữ ổn định với tỷ lệ nợ xấu dưới 2%, tổ chức này dự báo trong 12-18 tháng tới tỷ lệ này vẫn thấp nhờ SeABank có lịch sử quản trị rủi ro tín dụng ổn định.
Moody’s ghi nhận lợi nhuận của SeABank trong nửa đầu năm 2025 có sự cải thiện so với cùng kỳ nhờ chiến lược tái cơ cấu danh mục kinh doanh và tăng cường hiệu quả hoạt động. Kết quả này khẳng định năng lực quản trị của Ngân hàng trong việc thích ứng linh hoạt với diễn biến thị trường và duy trì đà tăng trưởng ổn định.
Đây là năm thứ tư liên tiếp SeABank được Moody’s giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm Ba3, đánh giá triển vọng phát triển Ổn định cho thấy sự tin tưởng của tổ chức quốc tế đối với năng lực quản trị, nền tảng tài chính định hướng phát triển bền vững của Ngân hàng.
Việc Moody’s tiếp tục duy trì xếp hạng Ba3 với triển vọng Ổn định không chỉ là sự công nhận quốc tế đối với SeABank mà còn góp phần nâng cao uy tín của Ngân hàng trong mắt các nhà đầu tư, đối tác trong và ngoài nước. Đây cũng là tín hiệu tích cực cho thị trường tài chính Việt Nam, khi các tổ chức quốc tế ngày càng ghi nhận vai trò của các ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân trong tiến trình hội nhập.
Bên cạnh việc tập trung vào củng cố nền tảng tài chính, SeABank còn định hướng trở thành ngân hàng dẫn đầu trong việc hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam mở rộng phát triển ra thị trường quốc tế, thúc đẩy tài chính xanh, tín dụng xanh và tài trợ cho các dự án thân thiện với môi trường. Thông qua đó, SeABank mong muốn đóng góp thiết thực cho nền kinh tế phát triển bền vững, phù hợp với chiến lược tăng trưởng dài hạn của Việt Nam.
Tính đến 30/6/2025, tổng tài sản SeABank đạt hơn 379 nghìn tỷ đồng, tiếp tục củng cố vị thế là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu, đồng hành cùng sự phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.
Kim Ngân
FILI - 09:18:09 26/09/2025
CTCP Chứng khoán Stanley Brothers (SBSI, UPCoM: VUA) có kế hoạch tổ chức ĐHĐCĐ bất thường lần 1/2025 nhằm thông qua phương án tăng vốn điều lệ từ 339 tỷ đồng lên 2,000 tỷ đồng thông qua chào bán riêng lẻ, đồng thời bầu lại dàn nhân sự HĐQT, BKS mới.
Đại hội dự kiến được tổ chức vào sáng ngày 14/10 tại tầng 7, Rox Tower, số 54A đường Nguyễn Chí Thanh, phường Láng, TP. Hà Nội. Trước đó, SBSI đã chốt danh sách cổ đông dự họp vào ngày 05/09.
Tăng vốn điều lệ lên 2,000 tỷ đồng
HĐQT SBSI dự kiến trình cổ đông xem xét kế hoạch phát hành tối đa 166.1 triệu cp riêng lẻ cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, thực hiện trong năm 2025 và 2026, dự kiến nâng vốn điều lệ từ 339 tỷ đồng lên 2,000 tỷ đồng.
Nếu được thông qua, đại hội sẽ ủy quyền cho HĐQT đàm phán với nhà đầu tư và quyết định giá chào bán tại từng thời điểm, đảm bảo không thấp hơn mệnh giá và không thấp hơn giá trị sổ sách cổ phiếu theo BCTC soát xét/kiểm toán gần nhất trước ngày HĐQT thông qua Nghị quyết triển khai phương án.
Tại thời điểm 30/06/2025, dù có vốn góp chủ sở hữu 339 tỷ đồng, nhưng quy mô vốn chủ của SBSI chỉ nhỉnh hơn 260 tỷ đồng do chịu lỗ lũy kế hơn 81 tỷ đồng, phản ánh tình hình kinh doanh khó khăn.
Như vậy, giá trị sổ sách tại thời điểm 30/06/2025 chỉ 7,676 đồng/cp. Do đó, khả năng SBSI trong thời gian tới sẽ sử dụng mệnh giá 10,000 đồng/cp để xác định giá chào bán tối thiểu.
Xu hướng lỗ lũy kế ngày càng lớn của SBSI
Với giả định có thể thu về tối đa 1,661 tỷ đồng (tính theo mệnh giá) từ đợt chào bán, SBSI cho biết sẽ dùng số tiền này để bổ sung nguồn lực cho các hoạt động kinh doanh, bao gồm đầu tư hệ thống công nghệ thông tin, hoạt động cho vay ký quỹ (margin), tự doanh và bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Theo Công ty, việc tăng vốn là hết sức cần thiết, nhằm nâng cao năng lực tài chính, tăng quy mô vốn cho hoạt động kinh doanh, cho vay giao dịch ký quỹ, đầu tư tài chính, bảo lãnh phát hành…; cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ tài chính mới cho khách hàng nhằm đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong ngành; nâng cao năng lực cạnh tranh và sẵn sàng nguồn lực tài chính để thực thi kế hoạch kinh doanh.
Thay thế dàn lãnh đạo "9x"
Đại hội sắp tới cũng sẽ xem xét thông qua việc tăng số lượng thành viên HĐQT từ 3 lên 5 để tăng cường công tác quản trị trong giai đoạn phát triển mới, đồng thời thay thế toàn bộ 3 thành viên HĐQT và 3 thành viên BKS nhiệm kỳ 2024-2029 đã nộp đơn xin từ nhiệm vào ngày 12/08 vì lý do cá nhân.
Đáng chú ý, dàn lãnh đạo vừa từ nhiệm đa phần có tuổi đời rất trẻ, bao gồm Chủ tịch Luyện Quang Thắng (1994), Thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Nguyễn Quang Anh (1978), Thành viên HĐQT Phạm Hoàng Hải (1990); Trưởng BKS Đỗ Đức Lộc (1992), Thành viên BKS Đinh Thị Lan Anh (1990) và Lê Thị Giang (1993).
Cũng trong ngày 12/08, SBSI bổ nhiệm bà Trương Thị Lan Anh làm Giám đốc Tài chính mới. Nhân vật này từng giữ vai trò Giám đốc Kế toán Chi tiêu tại Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam - MSB (2017-2025), Kiểm soát viên Kế toán Thuế Ngân hàng tại TMCP Kỹ Thương Việt Nam - Techcombank (2011-2017), Trưởng nhóm Kế toán thanh toán CTCP FPT (2003-2011).
Huy Khải
FILI - 16:43:00 22/09/2025
交易股票、货币、商品、期货、债券、基金等金融工具或加密货币属高风险行为,这些风险包括损失您的部分或全部投资金额,所以交易并非适合所有投资者。
做出任何财务决定时,应该进行自己的尽职调查,运用自己的判断力,并咨询合格的顾问。本网站的内容并非直接针对您,我们也未考虑您的财务状况或需求。本网站所含信息不一定是实时提供的,也不一定是准确的。本站提供的价格可能由做市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他财务决定均应完全由您负责,并且您不得依赖通过网站提供的任何信息。我们不对网站中的任何信息提供任何保证,并且对因使用网站中的任何信息而可能造成的任何交易损失不承担任何责任。
未经本站书面许可,禁止使用、存储、复制、展现、修改、传播或分发本网站所含数据。提供本网站所含数据的供应商及交易所保留其所有知识产权。