Thị trường
Tin tức
Phân tích
Người dùng
24x7
Lịch kinh tế
Học tập
Dữ liệu
- Tên
- Mới nhất
- Trước đây












Tín hiệu VIP
Tất cả
Tất cả



Trung Quốc Đại Lục: Cung tiền M1 YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Cung tiền M0 YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Cung tiền M2 YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo triển vọng dầu thô ngắn hạn trong năm nay của EIA (Tháng 12)T:--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo sản lượng khí thiên nhiên trong năm tới của EIA (Tháng 12)T:--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo sản lượng dầu thô ngắn hạn trong năm tới của EIA (Tháng 12)T:--
D: --
T: --
Triển vọng năng lượng ngắn hạn hàng tháng của EIA
Mỹ: Lợi suất trung bình đấu giá trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 nămT:--
D: --
T: --
Mỹ: Tồn trữ xăng dầu hàng tuần APIT:--
D: --
T: --
Mỹ: Tồn trữ dầu thô hàng tuần APIT:--
D: --
T: --
Mỹ: Tồn trữ dầu thô hàng tuần APIT:--
D: --
T: --
Mỹ: Tồn trữ sản phẩm chưng cất hàng tuần APIT:--
D: --
T: --
Hàn Quốc: Tỷ lệ thất nghiệp (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Nhật Bản: Chỉ số tâm lý Tankan của Reuters đối với các nhà phi sản xuất (Tháng 12)T:--
D: --
T: --
Nhật Bản: Chỉ số tâm lý Tankan của Reuters đối với các nhà sản xuất (Tháng 12)T:--
D: --
T: --
Nhật Bản: PPI MoM (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Nhật Bản: Chỉ số giá hàng hóa doanh nghiệp MoM (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Nhật Bản: Chỉ số giá hàng hóa doanh nghiệp YoY (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: CPI YoY (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: PPI YoY (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: CPI MoM (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Indonesia: Doanh số bán lẻ YoY (Tháng 10)T:--
D: --
T: --
Ý: Giá trị sản xuất công nghiệp YoY (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 10)T:--
D: --
T: --
Ý: Lợi suất trung bình đấu giá trái phiếu kho bạc BOT kỳ hạn 12 thángT:--
D: --
T: --
Thống đốc BOE Bailey phát biểu
Chủ tịch ECB Lagarde phát biểu
Nam Phi: Doanh số bán lẻ YoY (Tháng 10)T:--
D: --
T: --
Brazil: Chỉ số Lạm phát IPCA YoY (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Brazil: CPI YoY (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Mỹ: Chỉ số hoạt động thế chấp MBA WoWT:--
D: --
T: --
Mỹ: Chỉ số chi phí lao động QoQ (Quý 3)--
D: --
T: --
Canada: Mục tiêu lãi suất qua đêm--
D: --
T: --
Báo cáo chính sách tiền tệ của BOC
Mỹ: Biến động Tồn trữ xăng dầu hàng tuần EIA--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo nhu cầu hàng tuần của EIA theo sản lượng dầu thô--
D: --
T: --
Mỹ: Biến động Tồn trữ dầu thô hàng tuần EIA Cushing, Oklahoma--
D: --
T: --
Mỹ: Biến động Dự trữ dầu thô hàng tuần EIA--
D: --
T: --
Mỹ: Biến động nhập khẩu dầu thô hàng tuần EIA--
D: --
T: --
Mỹ: Tồn trữ dầu đốt hàng tuần EIA--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo lãi suất quỹ Liên bang-Thời gian dài (Quý 4)--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo lãi suất quỹ liên bang-Năm đầu tiên (Quý 4)--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo lãi suất quỹ Liên bang-Năm thứ hai (Quý 4)--
D: --
T: --
Mỹ: Mức sàn lãi suất FOMC (Lãi suất Repo nghịch đảo qua đêm)--
D: --
T: --
Mỹ: Cân đối ngân sách (Tháng 11)--
D: --
T: --
Mỹ: Trần lãi suất FOMC (Tỷ lệ dự trữ vượt mức)--
D: --
T: --
Mỹ: Lãi suất dự trữ vượt mức--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo lãi suất quỹ Liên bang hiện nay (Quý 4)--
D: --
T: --
Mỹ: Mục tiêu lãi suất quỹ Liên bang--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo lãi suất quỹ Liên bang-Năm thứ 3 (Quý 4)--
D: --
T: --
Cục Dự trữ Liên bang công bố quyết định lãi suất và tuyên bố chính sách tiền tệ
Họp báo FOMC
Brazil: Lãi suất mục tiêu Selic--
D: --
T: --
Vương Quốc Anh: Chỉ số giá nhà ở RICS 3 tháng (Tháng 11)--
D: --
T: --
Úc: Số người có việc làm (Tháng 11)--
D: --
T: --
Úc: Số người có việc làm (Toàn thời gian) (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)--
D: --
T: --
Úc: Tỷ lệ thất nghiệp (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)--
D: --
T: --
Úc: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)--
D: --
T: --
Ý: Tỷ lệ thất nghiệp hàng quý (Điều chỉnh theo mùa) (Quý 3)--
D: --
T: --
Báo cáo thị trường dầu của IEA
Thổ Nhĩ Kỳ: Lãi suất mua lại 1 tuần--
D: --
T: --
Nam Phi: Chỉ số niềm tin người tiêu dùng chính (PCSI) (Tháng 12)--
D: --
T: --


Không có dữ liệu phù hợp
Xem tất cả kết quả tìm kiếm

Không có dữ liệu
Lợi nhuận bật tăng, cổ phiếu vật liệu vào sóng?
Giá vật liệu xây dựng tăng mạnh trong quý II/2025 giúp nhiều doanh nghiệp ngành xi măng, đá, cát, sỏi cải thiện biên lợi nhuận và thoát lỗ, dù sản lượng chưa bứt phá. Triển vọng toàn ngành được nâng đỡ bởi dòng vốn đầu tư công giải ngân tích cực và nhu cầu hạ tầng tăng cao.
Giá vật liệu đầu vào như xi măng, đá, cát, sỏi leo thang trở lại không chỉ tạo lực đẩy cho doanh thu, mà còn giúp nhiều doanh nghiệp vật liệu xây dựng lật ngược thế cờ. Từ cảnh thua lỗ kéo dài, nhiều cái tên từng "đuối sức" nay đã có lãi, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ phục hồi ngành xây dựng.
Biên lợi nhuận gộp bật tăng, doanh nghiệp vật liệu dần thoát đáy
Quý II/2025 chứng kiến sự cải thiện rõ rệt trong hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp vật liệu xây dựng. Nhờ giá bán xi măng, cát, đá, sỏi tăng mạnh, nhiều doanh nghiệp đã lần đầu tiên sau nhiều quý kéo được biên lợi nhuận gộp lên mức cao vượt trung bình nhiều năm, dù sản lượng tiêu thụ không tăng đáng kể.
Tại Xi măng Hà Tiên (HT1), tỷ suất lợi nhuận gộp đạt 14% – mức cao nhất kể từ quý III/2021, kéo lợi nhuận ròng tăng vọt 85% lên 128 tỷ đồng dù doanh thu gần như đi ngang. Nhiều doanh nghiệp xi măng khác như Vicem Bút Sơn (BTS), Vicem Hoàng Mai (HOM), Xi măng Sài Sơn (SCJ) dù doanh thu giảm nhưng vẫn ghi nhận lợi nhuận nhờ cắt giảm mạnh chi phí và cải thiện giá vốn. BTS là ví dụ điển hình khi từ chỗ lỗ 96 tỷ đồng cùng kỳ năm trước đã thu hẹp lỗ nửa đầu năm xuống còn hơn 16 tỷ đồng, nhờ biên lợi nhuận gộp tăng từ 1,2% lên 7,7%.
Tổng công ty Xi măng Việt Nam (Vicem) cũng đảo chiều ngoạn mục, báo lãi hơn 1,3 tỷ đồng, thay vì khoản lỗ 811 tỷ đồng cùng kỳ. Dù ngành xi măng vẫn phải đối mặt với áp lực dư cung, kết quả tích cực cho thấy nỗ lực xoay trục và cơ cấu lại chi phí đã bước đầu phát huy tác dụng.
Trong khi đó, nhóm doanh nghiệp đá xây dựng ghi nhận tăng trưởng vượt trội nhờ nhu cầu từ các công trình hạ tầng. Hóa An (DHA) tăng trưởng 69% lợi nhuận ròng, trong khi Đá Núi Nhỏ (NNC) – “ngôi vương” biên lợi nhuận gộp – đạt tỷ suất trên 60% doanh thu, cao hơn đáng kể so với cùng kỳ. Biên Hòa VLB dù giữ biên lãi gộp ổn định quanh mức 28%, nhưng lợi nhuận sau thuế vẫn tăng 44% nhờ mở rộng sản lượng và tận dụng lợi thế địa lý gần các dự án trọng điểm.
Dòng vốn công mở đường tăng trưởng
Bộ Xây dựng ghi nhận thị trường vật liệu xây dựng nửa đầu năm 2025 có nhiều tín hiệu phục hồi. Tuy nhiên, giá vật liệu tiếp tục neo cao khiến chi phí đầu vào trở thành rào cản chính cho các doanh nghiệp xây dựng, trong bối cảnh một số loại vật liệu khan hiếm đã ảnh hưởng đến tiến độ dự án.
Tuy vậy, đầu tư công được kỳ vọng trở thành động lực tăng trưởng trung hạn cho toàn ngành. Ước tính đến hết tháng 6/2025, vốn đầu tư công giải ngân đạt hơn 268.000 tỷ đồng, tương đương 32,5% kế hoạch – mức cao nhất nhiều năm trở lại đây. Đây là tín hiệu cho thấy dư địa tăng trưởng còn rộng mở, đặc biệt với các doanh nghiệp có năng lực cung ứng vật liệu ở gần các dự án hạ tầng trọng điểm.
Trường hợp của VLB là minh chứng tiêu biểu. Với lợi thế sở hữu mỏ đá lớn gần sân bay Long Thành và cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu, VLB được kỳ vọng hưởng lợi mạnh từ dòng vốn đầu tư công, với sản lượng và lợi nhuận dự báo tăng lần lượt 10% và 20% trong năm nay.
Về ngành xi măng, triển vọng phục hồi được củng cố nhờ bất động sản trong nước khởi sắc và nỗ lực mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới nổi. Dù công suất toàn ngành gia tăng do hai nhà máy mới đưa vào vận hành từ năm 2024, các chuyên gia vẫn đánh giá giai đoạn 2025 – 2026 là thời điểm vàng để xi măng Việt Nam khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng vật liệu toàn cầu.





Quý 1/2025, dù một số doanh nghiệp đã thoát lỗ, bức tranh toàn ngành xi măng vẫn phủ gam màu xám. Tuy vậy, trong bối cảnh đầu tư công đang được đẩy mạnh và nhu cầu thị trường cải thiện, hy vọng đang nhen nhóm trở lại.
Ánh sáng le lói từ các doanh nghiệp nhỏ
Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC từ quý 1/2022 - 1/2025, ngành vẫn đang đi qua những ngày giông gió. Tổng lỗ ròng 3 tháng đầu năm nay của nhóm vẫn còn 124 tỷ đồng, dù đã thu hẹp so với mức lỗ 215 tỷ đồng cùng kỳ năm ngoái.
Trong bức tranh nhiều mảng tối đó, một vài doanh nghiệp nhỏ lại rực sáng, điển hình như Xi măng La Hiên VVMI lãi hơn 2 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần cùng kỳ, nhờ sản lượng tiêu thụ cải thiện.
Thị trường bất động sản phục hồi, CTCP Khoáng sản FECON lãi ròng hơn 4 tỷ đồng, gấp 4.7 lần cùng kỳ. Trong khi Xi măng Yên Bình hưởng lợi từ việc giảm giá thành sản xuất, giúp Công ty lãi 6 tỷ đồng, tăng 39%.
Đáng chú ý, Xi măng VICEM Hoàng Mai sau 2 quý thua lỗ liên tiếp, đã có lãi nhẹ hơn 500 triệu đồng nhờ thị trường miền Trung khởi sắc và giá nguyên liệu đầu vào hạ nhiệt.
Nhiều ông lớn vẫn trong vòng xoáy lỗ
Trái ngược với tín hiệu tích cực từ nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, các ông lớn ngành xi măng vẫn đang loay hoay với các khoản lỗ.
KQKD của doanh nghiệp xi măng trong quý 1/2025 (Đvt: Tỷ đồng)
Đứng đầu danh sách này là Xi măng Bỉm Sơn - tiếp tục lỗ gần 60 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ gần 49 tỷ đồng. Xi măng VICEM Bút Sơn kéo dài chuỗi thua lỗ sang quý thứ 10 với gần 29 tỷ đồng.
Ông lớn Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) cũng lỗ hơn 9 tỷ đồng. Về vấn đề này, tại ĐHĐCĐ thường niên 2025, ông Nguyễn Quốc Thắng - Thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc HT1 cho biết: quý 1 hàng năm thường ghi nhận kết quả thấp do trùng kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, nhưng tình hình đã cải thiện đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái (lỗ 25 tỷ đồng).
Xi măng Sài Sơn cũng kém sắc khi từ lãi chuyển qua lỗ hơn 3 tỷ đồng. Công ty cho biết, đã và đang tìm mọi giải pháp tiết kiệm chi phí trong sản xuất, giảm giá bán để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường, điều này khiến lợi nhuận giảm.
Đến cuối quý 1, nhóm doanh nghiệp niêm yết ngành xi măng có tổng giá trị tồn kho hơn 2.4 ngàn tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm. Trong đó, tồn kho của HT1 chiếm 26%, với 614 tỷ đồng, giảm 5% so với đầu năm và chiếm 8% tổng tài sản; giá trị thành phẩm của HT1 hơn 255 tỷ đồng, giảm 9% so với đầu năm.
Kế hoạch lạc quan, kỳ vọng vào nửa sau năm 2025?
Dù 3 tháng đầu năm chưa nhiều tích cực, các doanh nghiệp xi măng vẫn lạc quan đặt kế hoạch tăng trưởng trong năm 2025.
HT1 hướng tới mục tiêu đầy thách thức với doanh thu hơn 7,162 tỷ đồng, tăng 4% so với năm 2024; lợi nhuận sau thuế 184 tỷ đồng, gấp 3 lần năm trước. Sản xuất xi măng và clinker hơn 10 triệu tấn, tiêu thụ gần 6.4 triệu tấn, tăng lần lượt hơn 7% và 5%.
Tổng Giám đốc HT1 cho rằng, sản lượng tiêu thụ trong quý 1 đạt trên 19% kế hoạch năm; bước sang quý 2 là mùa cao điểm của ngành xi măng, kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh. Công ty cũng đang áp dụng các biện pháp tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả vận hành. Mục tiêu lợi nhuận quý 2 là 123 tỷ đồng, nếu đạt được, sẽ là cú hích lớn cho cả năm.
BCC đặt kế hoạch doanh thu thuần gần 3,680 tỷ đồng, tăng 6%; lãi trước thuế 2.4 tỷ đồng, năm trước lỗ hơn 8 tỷ đồng. Clinker sản xuất năm nay dự kiến hơn 2.8 triệu tấn nhưng tiêu thụ chỉ 354 ngàn tấn.
Xi măng Bút Sơn đặt mục tiêu thoát lỗ với khoản lãi kỳ vọng gần 30 tỷ đồng, năm trước lỗ gần 202 tỷ đồng - mức lỗ nặng nhất sau hơn thập niên. Mục tiêu sản xuất clinker hơn 2.5 triệu tấn, nhưng tiêu thụ chỉ 300 ngàn tấn và phấn đấu tiêu thụ hết hơn 3 triệu tấn xi măng dự kiến sản xuất trong năm nay.
Ngay cả Xi măng Hoàng Mai, từng lỗ gần 70 tỷ đồng trong năm 2024, cũng đặt kế hoạch lãi 15 tỷ đồng trong năm nay. Sản lượng clinker gần 1.3 triệu tấn và tiêu thụ 170 ngàn tấn; còn xi măng tự sản xuất dự định tiêu thụ hết gần 1.6 triệu tấn.
Điểm chung trong chiến lược của các doanh nghiệp là đẩy mạnh tiêu thụ nội địa, tận dụng làn sóng đầu tư công, đồng thời kiểm soát chặt chi phí vận hành.
Cửa sáng từ đầu tư công và dư địa thị trường
Trong bối cảnh đầu tư công đang được đẩy mạnh, cùng với trợ lực từ các yếu tố vĩ mô, pháp lý, các doanh nghiệp xây dựng và vật liệu xây dựng sẽ được hưởng lợi, nhất là trong việc tiêu thụ sản phẩm, trong đó có xi măng.
Theo tính toán của Bộ Xây dựng, nhu cầu tiêu thụ xi măng trong năm 2025 sẽ tăng khoảng 2 - 3% so với năm 2024, đạt mức 95-100 triệu tấn. Trong đó, tiêu thụ nội địa dao động từ 60-65 triệu tấn, xuất khẩu dự kiến 30-35 triệu tấn.
TS. Lương Đức Long - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam - cho rằng: đầu tư công đang được Chính phủ thúc đẩy mạnh mẽ, nhất là đầu tư về hạ tầng giao thông, xây dựng; việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm xi măng vẫn có những tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, sự tăng trưởng trong việc tiêu thụ xi măng sẽ thấy rõ hơn trong nửa cuối năm 2025. Nhu cầu xi măng tại Việt Nam chưa đạt đỉnh, dự báo từ giờ đến năm 2031 sẽ đạt đỉnh. Như vậy, việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm xi măng vẫn còn dư địa tăng trưởng.
Tuy nhiên, các rủi ro bên ngoài vẫn cần được lưu tâm. Chủ tịch HT1 - Đinh Quang Dũng chia sẻ tại ĐHĐCĐ thường niên 2025 rằng, biến động thuế quan từ Mỹ có thể gây tác động gián tiếp tới Việt Nam, khi hàng xi măng Trung Quốc chuyển hướng tràn vào Đông Nam Á, làm gia tăng cạnh tranh. Ngoài ra, việc chuỗi cung ứng toàn cầu gián đoạn có thể ảnh hưởng đến giá nguyên liệu.
Suy cho cùng, ngành xi măng đang chuyển mình chậm rãi sau nhiều quý ngụp lặn. Những nỗ lực điều chỉnh chiến lược, siết chi phí và làn sóng đầu tư công có thể là chìa khóa mở ra giai đoạn hồi phục trong năm nay.
Tuy nhiên để quay lại thời kỳ vàng son, thay vì lạc quan, các doanh nghiệp xi măng cần một chiến lược thực thi hiệu quả, đặc biệt là khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Thanh Tú
FILI - 08:07:01 12/05/2025
Ngày 28/02, Cục thuế TP. Hà Nội quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với CTCP Xi măng Sài Sơn do khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế GTGT, TNDN, TNCN phải nộp.
Cụ thể, SCJ bị phạt tiền hơn 335 triệu đồng đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn theo quy định, mức phạt 20% tính trên số thuế thiếu do khai sai.
Công ty cũng bị phạt đối với hành vi khai sai, khai không đầy đủ các chỉ tiêu liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế trong hồ sơ thuế nhưng không dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc không dẫn đến tăng số tiền thuế được miễn, hoàn theo quy định, mức phạt hơn 35 triệu đồng.
Ngoài ra, SCJ phải nộp đủ số tiền thuế còn thiếu hơn 1.5 tỷ đồng. Trong đó, thuế TNDN gần 1.45 tỷ đồng; thuế TNCN là hơn 52 triệu đồng. Bên cạnh đó là tiền chậm nộp hơn 224 triệu đồng (tính đến ngày 26/02).
Tổng số thuế truy thu, tiền phạt và tiền chậm nộp mà SCJ phạt nộp gần 2.1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn bị phạt và truy thu thuế trong bối cảnh Doanh nghiệp vừa khép lại quý 4/2024 với lợi nhuận ròng gần 5 tỷ đồng, tăng 87% so với cùng kỳ.
SCJ cho biết, do nhà máy hoạt động ổn định, chi phí lãi vay giảm nhờ Công ty đã trả vốn trung hạn. Đồng thời, Công ty đã tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường khiến lợi nhuận tăng.
Cả năm 2024, SCJ lãi gần 13 tỷ đồng, tăng 61% và là năm có lãi ròng cao nhất kể từ 2015. So với kế hoạch năm, Công ty vượt 13%.
Doanh nghiệp cũng chốt danh sách tham dự ĐHĐCĐ thường niên 2025 với ngày đăng ký cuối cùng là 18/03. Thời gian tổ chức dự kiến trong tháng 4/2025 tại hội trường Xi măng Sài Sơn xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ, TP. Hà Nội.
Thanh Tú
FILI - 19:00:00 03/03/2025
SCJ bị phạt và truy thu thuế hơn 2 tỷ đồng
Ngày 28/02, Cục thuế TP. Hà Nội quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với CTCP Xi măng Sài Sơn (UPCoM: SCJ) do khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế GTGT, TNDN, TNCN phải nộp.
Cụ thể, SCJ bị phạt tiền hơn 335 triệu đồng đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn theo quy định, mức phạt 20% tính trên số thuế thiếu do khai sai.
Công ty cũng bị phạt đối với hành vi khai sai, khai không đầy đủ các chỉ tiêu liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế trong hồ sơ thuế nhưng không dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc không dẫn đến tăng số tiền thuế được miễn, hoàn theo quy định, mức phạt hơn 35 triệu đồng.
Ngoài ra, SCJ phải nộp đủ số tiền thuế còn thiếu hơn 1.5 tỷ đồng. Trong đó, thuế TNDN gần 1.45 tỷ đồng; thuế TNCN là hơn 52 triệu đồng. Bên cạnh đó là tiền chậm nộp hơn 224 triệu đồng (tính đến ngày 26/02).
Tổng số thuế truy thu, tiền phạt và tiền chậm nộp mà SCJ phạt nộp gần 2.1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn bị phạt và truy thu thuế trong bối cảnh Doanh nghiệp vừa khép lại quý 4/2024 với lợi nhuận ròng gần 5 tỷ đồng, tăng 87% so với cùng kỳ.
SCJ cho biết, do nhà máy hoạt động ổn định, chi phí lãi vay giảm nhờ Công ty đã trả vốn trung hạn. Đồng thời, Công ty đã tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường khiến lợi nhuận tăng.
Cả năm 2024, SCJ lãi gần 13 tỷ đồng, tăng 61% và là năm có lãi ròng cao nhất kể từ 2015. So với kế hoạch năm, Công ty vượt 13%.
Doanh nghiệp cũng chốt danh sách tham dự ĐHĐCĐ thường niên 2025 với ngày đăng ký cuối cùng là 18/03. Thời gian tổ chức dự kiến trong tháng 4/2025 tại hội trường Xi măng Sài Sơn xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ, TP. Hà Nội.
SCJ bị phạt và truy thu thuế hơn 2 tỷ đồng
Ngày 28/02, Cục thuế TP. Hà Nội quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với CTCP Xi măng Sài Sơn (UPCoM: SCJ) do khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế GTGT, TNDN, TNCN phải nộp.
Cụ thể, SCJ bị phạt tiền hơn 335 triệu đồng đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn theo quy định, mức phạt 20% tính trên số thuế thiếu do khai sai.
Công ty cũng bị phạt đối với hành vi khai sai, khai không đầy đủ các chỉ tiêu liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế trong hồ sơ thuế nhưng không dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc không dẫn đến tăng số tiền thuế được miễn, hoàn theo quy định, mức phạt hơn 35 triệu đồng.
Ngoài ra, SCJ phải nộp đủ số tiền thuế còn thiếu hơn 1.5 tỷ đồng. Trong đó, thuế TNDN gần 1.45 tỷ đồng; thuế TNCN là hơn 52 triệu đồng. Bên cạnh đó là tiền chậm nộp hơn 224 triệu đồng (tính đến ngày 26/02).
Tổng số thuế truy thu, tiền phạt và tiền chậm nộp mà SCJ phạt nộp gần 2.1 tỷ đồng.
Xi măng Sài Sơn bị phạt và truy thu thuế trong bối cảnh Doanh nghiệp vừa khép lại quý 4/2024 với lợi nhuận ròng gần 5 tỷ đồng, tăng 87% so với cùng kỳ.
SCJ cho biết, do nhà máy hoạt động ổn định, chi phí lãi vay giảm nhờ Công ty đã trả vốn trung hạn. Đồng thời, Công ty đã tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường khiến lợi nhuận tăng.
Cả năm 2024, SCJ lãi gần 13 tỷ đồng, tăng 61% và là năm có lãi ròng cao nhất kể từ 2015. So với kế hoạch năm, Công ty vượt 13%.
Doanh nghiệp cũng chốt danh sách tham dự ĐHĐCĐ thường niên 2025 với ngày đăng ký cuối cùng là 18/03. Thời gian tổ chức dự kiến trong tháng 4/2025 tại hội trường Xi măng Sài Sơn xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ, TP. Hà Nội.
Doanh nghiệp ngành xi măng vẫn chưa hết khó
Ngành xi măng Việt Nam vẫn chưa thể giải quyết được "bài toán" cung - cầu:
Cung vượt quá cầu, cùng với xuất khẩu sụt giảm… khiến nhiều doanh nghiệp ngành xi măng Việt Nam vẫn chưa thể thoát ra khỏi “vòng xoáy” thua lỗ.
Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xi măng đang niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn so với số lượng các doanh nghiệp có lãi tăng cũng như chuyển lỗ sang lãi.
Kết quả kinh doanh: Lỗ nhiều hơn lãi
Trong nhóm các doanh nghiệp có lãi tăng trưởng mạnh nhất, Công ty CP Xi măng Sài Sơn (UpCOM: SCJ) ghi nhận quý IV/2024, doanh thu của SCJ tăng trưởng gần 26% so với cùng kỳ năm 2023; Lợi nhuận sau thuế ghi nhận đạt gần 5 tỷ đồng, tăng gần 78% so với cùng kỳ năm trước.
Có được kết quả trên là do nhà máy hoạt động ổn định, chi phí lãi vay giảm nhờ Công ty đã trả vốn trung hạn. Đồng thời, doanh nghiệp đã tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường khiến lợi nhuận tăng.
Lũy kế cả năm 2024, doanh thu của SCJ đạt hơn 1.276 tỷ đồng, tăng gần 9% so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế ghi nhận đạt gần 13 tỷ đồng, tăng gần 61% so với năm 2023. Đây cũng là năm có lãi cao nhất kể từ năm 2015 của doanh nghiệp này.
Tại Công ty CP Xi măng La Hiên VVMI (HNX: CLH), trong quý IV/2024 doanh nghiệp ghi nhận doanh thu thuần đạt gần 226 tỷ đồng, tăng hơn 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận sau thuế ghi nhận đạt hơn 21 tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ năm trước. Đây cũng là quý kinh doanh có lãi cao nhất kể từ quý I/2022 của doanh nghiệp này. Lũy kế cả năm 2024, lợi nhuận của doanh nghiệp đạt gần 39 tỷ đồng, giảm 18% so với năm 2023.
Doanh nghiệp cho biết, trong quý IV/2024 nhu cầu tiêu thụ xi măng cuối năm có xu hướng tăng nhẹ. Sản lượng sản xuất, tiêu thụ tăng, nên đã tiết kiệm được một phần chi phí cố định. Bên cạnh đó, việc sử dụng vốn linh hoạt, hiệu quả, doanh thu tài chính cao, giúp lợi nhuận của doanh nghiệp tăng so với cùng kỳ.
Một doanh nghiệp khác là Công ty CP Xi măng Yên Bình (UpCOM: VCX) cũng ghi nhận quý kinh doanh tăng trưởng ấn tượng, khi ghi nhận doanh thu đạt hơn 285 tỷ đồng, tăng hơn 17% so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế ghi nhận đạt hơn 14,4 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ. Đây cũng là quý kinh doanh có lãi cao nhất của doanh nghiệp này kể từ quý I/2018. Lũy kế cả năm 2024, lợi nhuận của VCX đạt hơn 22,4 tỷ đồng, tăng mạnh gần 149% so với năm trước.
Doanh nghiệp cho biết, trong quý IV/2024 sản lượng bán hàng tăng nên doanh thu bán hàng nên doanh thu tăng. Mặt khác, Công ty đã thúc đẩy sản xuất, giảm tiêu hao nên sản lượng sản xuất tăng. Cùng với đó, giá nguyên vật liệu đầu vào chính như than, thạch cao, cước vận chuyển đều giảm và chi phí sửa chữa lớn cũng giảm hơn so với cùng kỳ nên giá thành sản xuất sản phẩm giảm, góp phần đưa lợi nhuận tăng.
Trong khi đó, tại Công ty CP Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) mặc dù doanh thu trong quý IV/2024 tăng nhẹ so với cùng kỳ, đạt 1.843 tỷ đồng. Tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế chỉ đạt hơn 21 tỷ đồng, giảm tới 61% so với cùng kỳ năm trước. Lãi ròng cả năm 2024 của HT1 đạt 65 tỷ đồng, tăng mạnh 3,6 lần so với năm trước.
Doanh nghiệp cho biết, nguyên nhân chính được xác định là tình trạng cạnh tranh khốc liệt trên thị trường xi măng khi các doanh nghiệp trong ngành nỗ lực giành thị phần bằng cách hạ giá bán và điều chỉnh chính sách bán hàng.
Thị trường xi măng đang chứng kiến tình trạng nguồn cung dư thừa dẫn đến các doanh nghiệp cùng ngành rơi vào thế cạnh tranh không khoan nhượng. Việc các công ty đồng loạt giảm giá và cải thiện chính sách bán hàng để gia tăng sản lượng tiêu thụ đã tạo áp lực lớn lên biên lợi nhuận của doanh nghiệp.
Ở nhóm các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ trong quý IV/2024, điển hình là Công ty CP Xi măng Vicem Hoàng Mai (HNX: HOM) ghi nhận doanh thu thuần gần 506 tỷ đồng, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước. Do giá vốn tăng mạnh hơn khiến lợi nhuận gộp thu về cũng không đủ bù đắp các chi phí, khiến công ty báo lỗ sau thuế 16 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ chỉ lỗ 5,3 tỷ đồng.
Lũy kế cả năm 2024, Vicem Hoàng Mai đạt gần 1.710 tỷ đồng doanh thu thuần, giảm 2% so với năm 2023, nhưng lỗ ròng tới 67 tỷ đồng (năm trước lỗ 31 tỷ đồng). Với khoản lỗ này, lỗ luỹ kế đến cuối năm 2024 của công ty đã lên đến 92,4 tỷ đồng.
Cùng chung cảnh ngộ, Công ty CP Xi măng Vicem Bút Sơn (HNX: BTS) báo cáo doanh thu thuần quý IV đạt xấp xỉ 770 tỷ đồng, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng do kinh doanh dưới giá vốn, công ty lỗ gộp hơn 23 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ vẫn lãi gộp gần 17 tỷ đồng. Sau khi trừ đi các chi phí, BTS lỗ sau thuế gần 76 tỷ đồng, gấp đôi khoản lỗ hơn 32 tỷ đồng trong quý IV/2023.
Tính chung cả năm 2024, dù doanh thu thuần tăng nhẹ so với năm 2023, lên 2.609,6 tỷ đồng, nhưng doanh nghiệp lỗ ròng tới 198 tỷ đồng, tăng mạnh so với khoản lỗ hơn 96 tỷ đồng của năm 2023. Khoản lỗ năm 2024 cũng nâng lỗ lũy kế của công ty lên xấp xỉ 288 tỷ đồng.
Tương tự, Công ty CP Xi măng Vicem Hải Vân (HoSE: HVX) ghi nhận doanh thu thuần quý IV đạt hơn 86 tỷ đồng, giảm 2% so với cùng kỳ. Doanh nghiệp lỗ sau thuế 6,3 tỷ đồng, cải thiện so với mức lỗ 30 tỷ đồng cùng kỳ. Đây cũng là quý thứ 7 liên tiếp, công ty báo lỗ kể từ quý II/2023.
Lũy kế năm 2024, doanh thu thuần của HVX đạt gần 348 tỷ đồng, giảm 32% so với năm trước. Doanh nghiệp lỗ ròng hơn 44 tỷ đồng, giảm nhẹ so với mức lỗ hơn 64 tỷ đồng năm 2023. Lỗ luỹ kế đến cuối 2024 của HVX là 96,6 tỷ đồng.
Xuất khẩu dự báo tăng trưởng chậm
Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xi măng đã phản ánh phần nào bức tranh chung của toàn ngành xi măng Việt Nam trong năm 2024, khi vẫn chưa thể giải quyết được bài toán cung – cầu trong nước. Trong nhiều năm qua, nguồn cung xi măng ở thị trường trong nước luôn vượt cầu, cùng với đó là sự sụt giảm ở mảng xuất khẩu, khiến nhiều doanh nghiệp ngành xi măng vẫn chưa thể thoát ra khỏi "vòng xoáy" thua lỗ.
Theo Bộ Xây dựng, trong năm 2024, nguồn cung xi măng toàn quốc đạt khoảng 122 triệu tấn, trong khi, nhu cầu tiêu thụ trong nước chỉ đạt khoảng 60 triệu tấn, xuất khẩu giảm so với năm trước, dẫn đến dư thừa nguồn cung.
Bên cạnh đó, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao như điện, than..., nguyên liệu sản xuất duy trì ở mức cao khiến chi phí sản xuất ngày càng tăng mạnh. Thị trường bất động sản trầm lắng, các dự án xây dựng từ nguồn đầu tư công chậm giải ngân, ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tiêu thụ của xi măng trong nước.
Không những vậy, nhu cầu tiêu thụ xi măng, clinker sụt giảm, tồn kho tăng cao, dẫn đến một số nhà máy trong hệ thống của Tổng công ty Xi măng Việt Nam (Vicem) phải dừng lò, giảm công suất, thời gian huy động thiết bị so với kế hoạch, để hạn chế đỗ clinker ra bãi.
Ngoài ra, do thị trường bất động sản còn trầm lắng, nhiều công trình xây dựng, dự án trọng điểm chậm triển khai, phải hoãn, giãn tiến độ. Xây dựng dân sinh cũng kém đi nhiều, cộng với nguồn cung vốn đã dư thừa gấp đôi so với nhu cầu lại được tiếp thêm bằng dự án mới đưa vào vận hành, nhiều nhà sản xuất cạnh tranh gay gắt, giảm giá bán..., khiến xi măng thiếu đầu ra trầm trọng.
Về xuất khẩu, theo số liệu thống kê từ Báo cáo ngành xi măng, năm 2024, ngành xi măng xuất khẩu hơn 29,94 triệu tấn xi măng và clinker, thu về trên 1,15 tỷ USD, giảm hơn 4% về lượng và giảm gần 14% về kim ngạch so với năm 2023.
Trong năm 2024, xuất khẩu xi măng clinker sang thị trường Philippines giảm khoảng 0,6% về lượng, giảm khoảng 11% về kim ngạch và giảm 10,5% về giá so với năm 2023. Philippines là thị trường lớn nhất tiêu thụ xi măng clinker của Việt Nam, chiếm 27% trong tổng lượng và chiếm 28% trong tổng kim ngạch xuất khẩu xi măng và clinker của cả nước, đạt hơn 8 triệu tấn, tương đương 319,09 triệu USD, giá trung bình 39,9 USD/tấn.
Xi măng clinker xuất khẩu sang Bangladesh, thị trường lớn thứ 2 đạt 5,49 triệu tấn, trị giá hơn 175, 13 triệu USD, giá trung bình 31,9 USD/tấn chiếm 18,5% trong tổng lượng và chiếm 15,4% trong tổng kim ngạch. Tiếp theo đó là thị trường Malaysia chiếm 5,7% trong tổng lượng và chiếm 5% trong tổng kim ngạch, đạt 1,68 triệu tấn, tương đương 57,19 triệu USD, giá 34 USD/tấn.
Xuất khẩu xi măng và clinker của Việt Nam được dự báo tăng trưởng chậm có thể duy trì ở mức tương đương so với năm 2024. Thị trường xuất khẩu đang dần dịch chuyển sang các thị trường mới như Mỹ, khu vực Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Phi.
Về nhu cầu tiêu thụ xi măng trong năm 2025, theo tính toán của Bộ Xây dựng, nhu cầu tiêu thụ xi măng toàn ngành năm 2025 khoảng 95 - 100 triệu tấn, tăng 2 - 3% so với năm 2024. Trong đó, tiêu thụ nội địa khoảng 60 - 65 triệu tấn, xuất khẩu khoảng 30 - 35 triệu tấn.
Doanh nghiệp ngành xi măng vẫn chưa hết khó
Ngành xi măng Việt Nam vẫn chưa thể giải quyết được "bài toán" cung - cầu:
Cung vượt quá cầu, cùng với xuất khẩu sụt giảm… khiến nhiều doanh nghiệp ngành xi măng Việt Nam vẫn chưa thể thoát ra khỏi “vòng xoáy” thua lỗ.
Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xi măng đang niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn so với số lượng các doanh nghiệp có lãi tăng cũng như chuyển lỗ sang lãi.
Kết quả kinh doanh: Lỗ nhiều hơn lãi
Trong nhóm các doanh nghiệp có lãi tăng trưởng mạnh nhất, Công ty CP Xi măng Sài Sơn (UpCOM: SCJ) ghi nhận quý IV/2024, doanh thu của SCJ tăng trưởng gần 26% so với cùng kỳ năm 2023; Lợi nhuận sau thuế ghi nhận đạt gần 5 tỷ đồng, tăng gần 78% so với cùng kỳ năm trước.
Có được kết quả trên là do nhà máy hoạt động ổn định, chi phí lãi vay giảm nhờ Công ty đã trả vốn trung hạn. Đồng thời, doanh nghiệp đã tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường khiến lợi nhuận tăng.
Lũy kế cả năm 2024, doanh thu của SCJ đạt hơn 1.276 tỷ đồng, tăng gần 9% so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế ghi nhận đạt gần 13 tỷ đồng, tăng gần 61% so với năm 2023. Đây cũng là năm có lãi cao nhất kể từ năm 2015 của doanh nghiệp này.
Tại Công ty CP Xi măng La Hiên VVMI (HNX: CLH), trong quý IV/2024 doanh nghiệp ghi nhận doanh thu thuần đạt gần 226 tỷ đồng, tăng hơn 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận sau thuế ghi nhận đạt hơn 21 tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ năm trước. Đây cũng là quý kinh doanh có lãi cao nhất kể từ quý I/2022 của doanh nghiệp này. Lũy kế cả năm 2024, lợi nhuận của doanh nghiệp đạt gần 39 tỷ đồng, giảm 18% so với năm 2023.
Doanh nghiệp cho biết, trong quý IV/2024 nhu cầu tiêu thụ xi măng cuối năm có xu hướng tăng nhẹ. Sản lượng sản xuất, tiêu thụ tăng, nên đã tiết kiệm được một phần chi phí cố định. Bên cạnh đó, việc sử dụng vốn linh hoạt, hiệu quả, doanh thu tài chính cao, giúp lợi nhuận của doanh nghiệp tăng so với cùng kỳ.
Một doanh nghiệp khác là Công ty CP Xi măng Yên Bình (UpCOM: VCX) cũng ghi nhận quý kinh doanh tăng trưởng ấn tượng, khi ghi nhận doanh thu đạt hơn 285 tỷ đồng, tăng hơn 17% so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế ghi nhận đạt hơn 14,4 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ. Đây cũng là quý kinh doanh có lãi cao nhất của doanh nghiệp này kể từ quý I/2018. Lũy kế cả năm 2024, lợi nhuận của VCX đạt hơn 22,4 tỷ đồng, tăng mạnh gần 149% so với năm trước.
Doanh nghiệp cho biết, trong quý IV/2024 sản lượng bán hàng tăng nên doanh thu bán hàng nên doanh thu tăng. Mặt khác, Công ty đã thúc đẩy sản xuất, giảm tiêu hao nên sản lượng sản xuất tăng. Cùng với đó, giá nguyên vật liệu đầu vào chính như than, thạch cao, cước vận chuyển đều giảm và chi phí sửa chữa lớn cũng giảm hơn so với cùng kỳ nên giá thành sản xuất sản phẩm giảm, góp phần đưa lợi nhuận tăng.
Trong khi đó, tại Công ty CP Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) mặc dù doanh thu trong quý IV/2024 tăng nhẹ so với cùng kỳ, đạt 1.843 tỷ đồng. Tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế chỉ đạt hơn 21 tỷ đồng, giảm tới 61% so với cùng kỳ năm trước. Lãi ròng cả năm 2024 của HT1 đạt 65 tỷ đồng, tăng mạnh 3,6 lần so với năm trước.
Doanh nghiệp cho biết, nguyên nhân chính được xác định là tình trạng cạnh tranh khốc liệt trên thị trường xi măng khi các doanh nghiệp trong ngành nỗ lực giành thị phần bằng cách hạ giá bán và điều chỉnh chính sách bán hàng.
Thị trường xi măng đang chứng kiến tình trạng nguồn cung dư thừa dẫn đến các doanh nghiệp cùng ngành rơi vào thế cạnh tranh không khoan nhượng. Việc các công ty đồng loạt giảm giá và cải thiện chính sách bán hàng để gia tăng sản lượng tiêu thụ đã tạo áp lực lớn lên biên lợi nhuận của doanh nghiệp.
Ở nhóm các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ trong quý IV/2024, điển hình là Công ty CP Xi măng Vicem Hoàng Mai (HNX: HOM) ghi nhận doanh thu thuần gần 506 tỷ đồng, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước. Do giá vốn tăng mạnh hơn khiến lợi nhuận gộp thu về cũng không đủ bù đắp các chi phí, khiến công ty báo lỗ sau thuế 16 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ chỉ lỗ 5,3 tỷ đồng.
Lũy kế cả năm 2024, Vicem Hoàng Mai đạt gần 1.710 tỷ đồng doanh thu thuần, giảm 2% so với năm 2023, nhưng lỗ ròng tới 67 tỷ đồng (năm trước lỗ 31 tỷ đồng). Với khoản lỗ này, lỗ luỹ kế đến cuối năm 2024 của công ty đã lên đến 92,4 tỷ đồng.
Cùng chung cảnh ngộ, Công ty CP Xi măng Vicem Bút Sơn (HNX: BTS) báo cáo doanh thu thuần quý IV đạt xấp xỉ 770 tỷ đồng, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng do kinh doanh dưới giá vốn, công ty lỗ gộp hơn 23 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ vẫn lãi gộp gần 17 tỷ đồng. Sau khi trừ đi các chi phí, BTS lỗ sau thuế gần 76 tỷ đồng, gấp đôi khoản lỗ hơn 32 tỷ đồng trong quý IV/2023.
Tính chung cả năm 2024, dù doanh thu thuần tăng nhẹ so với năm 2023, lên 2.609,6 tỷ đồng, nhưng doanh nghiệp lỗ ròng tới 198 tỷ đồng, tăng mạnh so với khoản lỗ hơn 96 tỷ đồng của năm 2023. Khoản lỗ năm 2024 cũng nâng lỗ lũy kế của công ty lên xấp xỉ 288 tỷ đồng.
Tương tự, Công ty CP Xi măng Vicem Hải Vân (HoSE: HVX) ghi nhận doanh thu thuần quý IV đạt hơn 86 tỷ đồng, giảm 2% so với cùng kỳ. Doanh nghiệp lỗ sau thuế 6,3 tỷ đồng, cải thiện so với mức lỗ 30 tỷ đồng cùng kỳ. Đây cũng là quý thứ 7 liên tiếp, công ty báo lỗ kể từ quý II/2023.
Lũy kế năm 2024, doanh thu thuần của HVX đạt gần 348 tỷ đồng, giảm 32% so với năm trước. Doanh nghiệp lỗ ròng hơn 44 tỷ đồng, giảm nhẹ so với mức lỗ hơn 64 tỷ đồng năm 2023. Lỗ luỹ kế đến cuối 2024 của HVX là 96,6 tỷ đồng.
Xuất khẩu dự báo tăng trưởng chậm
Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xi măng đã phản ánh phần nào bức tranh chung của toàn ngành xi măng Việt Nam trong năm 2024, khi vẫn chưa thể giải quyết được bài toán cung – cầu trong nước. Trong nhiều năm qua, nguồn cung xi măng ở thị trường trong nước luôn vượt cầu, cùng với đó là sự sụt giảm ở mảng xuất khẩu, khiến nhiều doanh nghiệp ngành xi măng vẫn chưa thể thoát ra khỏi "vòng xoáy" thua lỗ.
Theo Bộ Xây dựng, trong năm 2024, nguồn cung xi măng toàn quốc đạt khoảng 122 triệu tấn, trong khi, nhu cầu tiêu thụ trong nước chỉ đạt khoảng 60 triệu tấn, xuất khẩu giảm so với năm trước, dẫn đến dư thừa nguồn cung.
Bên cạnh đó, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao như điện, than..., nguyên liệu sản xuất duy trì ở mức cao khiến chi phí sản xuất ngày càng tăng mạnh. Thị trường bất động sản trầm lắng, các dự án xây dựng từ nguồn đầu tư công chậm giải ngân, ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tiêu thụ của xi măng trong nước.
Không những vậy, nhu cầu tiêu thụ xi măng, clinker sụt giảm, tồn kho tăng cao, dẫn đến một số nhà máy trong hệ thống của Tổng công ty Xi măng Việt Nam (Vicem) phải dừng lò, giảm công suất, thời gian huy động thiết bị so với kế hoạch, để hạn chế đỗ clinker ra bãi.
Ngoài ra, do thị trường bất động sản còn trầm lắng, nhiều công trình xây dựng, dự án trọng điểm chậm triển khai, phải hoãn, giãn tiến độ. Xây dựng dân sinh cũng kém đi nhiều, cộng với nguồn cung vốn đã dư thừa gấp đôi so với nhu cầu lại được tiếp thêm bằng dự án mới đưa vào vận hành, nhiều nhà sản xuất cạnh tranh gay gắt, giảm giá bán..., khiến xi măng thiếu đầu ra trầm trọng.
Về xuất khẩu, theo số liệu thống kê từ Báo cáo ngành xi măng, năm 2024, ngành xi măng xuất khẩu hơn 29,94 triệu tấn xi măng và clinker, thu về trên 1,15 tỷ USD, giảm hơn 4% về lượng và giảm gần 14% về kim ngạch so với năm 2023.
Trong năm 2024, xuất khẩu xi măng clinker sang thị trường Philippines giảm khoảng 0,6% về lượng, giảm khoảng 11% về kim ngạch và giảm 10,5% về giá so với năm 2023. Philippines là thị trường lớn nhất tiêu thụ xi măng clinker của Việt Nam, chiếm 27% trong tổng lượng và chiếm 28% trong tổng kim ngạch xuất khẩu xi măng và clinker của cả nước, đạt hơn 8 triệu tấn, tương đương 319,09 triệu USD, giá trung bình 39,9 USD/tấn.
Xi măng clinker xuất khẩu sang Bangladesh, thị trường lớn thứ 2 đạt 5,49 triệu tấn, trị giá hơn 175, 13 triệu USD, giá trung bình 31,9 USD/tấn chiếm 18,5% trong tổng lượng và chiếm 15,4% trong tổng kim ngạch. Tiếp theo đó là thị trường Malaysia chiếm 5,7% trong tổng lượng và chiếm 5% trong tổng kim ngạch, đạt 1,68 triệu tấn, tương đương 57,19 triệu USD, giá 34 USD/tấn.
Xuất khẩu xi măng và clinker của Việt Nam được dự báo tăng trưởng chậm có thể duy trì ở mức tương đương so với năm 2024. Thị trường xuất khẩu đang dần dịch chuyển sang các thị trường mới như Mỹ, khu vực Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Phi.
Về nhu cầu tiêu thụ xi măng trong năm 2025, theo tính toán của Bộ Xây dựng, nhu cầu tiêu thụ xi măng toàn ngành năm 2025 khoảng 95 - 100 triệu tấn, tăng 2 - 3% so với năm 2024. Trong đó, tiêu thụ nội địa khoảng 60 - 65 triệu tấn, xuất khẩu khoảng 30 - 35 triệu tấn.
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Công cụ thiết kế Poster
Chương trình Tiếp thị Liên kết
Giao dịch các công cụ tài chính như cổ phiếu, tiền tệ, hàng hóa, hợp đồng tương lai, trái phiếu, quỹ hoặc tiền kỹ thuật số tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, bao gồm rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư, và có thể không phù hợp với mọi nhà đầu tư.
Trước khi quyết định giao dịch các công cụ tài chính hoặc tiền điện tử, bạn cần hiểu đầy đủ về rủi ro và chi phí giao dịch trên thị trường tài chính, thận trọng cân nhắc đối tượng đầu tư, và tiến hành tư vấn chuyên môn cần thiết. Dữ liệu trên trang web này không nhất thiết là theo thời gian thực hay chính xác. Dữ liệu và giá cả trên trang web không nhất thiết là thông tin do bất kỳ sở giao dịch nào cung cấp, nhưng có thể được cung cấp bởi các nhà tạo lập thị trường. Bạn chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả quyết kết giao dịch bạn đã thực hiện. Chúng tôi không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào trước bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào xảy ra từ kết quả giao dịch của bạn, hoặc trước việc bạn dựa vào thông tin có trong trang web này.
Bạn không được phép sử dụng, lưu trữ, sao chép, hiển thị, sửa đổi, truyền hay phân phối dữ liệu có trên trang web này và chưa nhận được sự cho phép rõ ràng bằng văn bản của Trang web này. Tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều được bảo hộ bởi các nhà cung cấp và/hoặc sở giao dịch cung cấp dữ liệu có trên trang web này.
Chưa đăng nhập
Đăng nhập để xem nội dung nhiều hơn

FastBull VIP
Chưa nâng cấp
Nâng cấp
Đăng nhập
Đăng ký