Thị trường
Tin tức
Phân tích
Người dùng
24x7
Lịch kinh tế
Học tập
Dữ liệu
- Tên
- Mới nhất
- Trước đây












Tín hiệu VIP
Tất cả
Tất cả



Pháp: Cán cân thương mại (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 10)T:--
D: --
Khu vực Đồng Euro: Số người có việc làm YoY (Điều chỉnh theo mùa) (Quý 3)T:--
D: --
Canada: Số người có việc làm (Bán thời gian) (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Canada: Tỷ lệ thất nghiệp (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Canada: Số người có việc làm (Toàn thời gian) (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Canada: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Canada: Số người có việc làm (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Mỹ: Chỉ số giá PCE MoM (Tháng 9)T:--
D: --
T: --
Mỹ: Thu nhập cá nhân MoM (Tháng 9)T:--
D: --
T: --
Mỹ: Chỉ số giá PCE lõi MoM (Tháng 9)T:--
D: --
T: --
Mỹ: Chỉ số giá PCE YoY (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 9)T:--
D: --
T: --
Mỹ: Chỉ số giá PCE lõi YoY (Tháng 9)T:--
D: --
T: --
Mỹ: Chi tiêu cá nhân MoM (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 9)T:--
D: --
Mỹ: Lạm phát kỳ vọng 5-10 năm (Tháng 12)T:--
D: --
T: --
Mỹ: Chi tiêu tiêu dùng cá nhân thực tế MoM (Tháng 9)T:--
D: --
Mỹ: Tổng số giàn khoan hàng tuầnT:--
D: --
T: --
Mỹ: Tổng số giàn khoan dầu hàng tuầnT:--
D: --
T: --
Mỹ: Tín dụng tiêu dùng (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 10)T:--
D: --
Trung Quốc Đại Lục: Dự trữ ngoại hối (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Nhật Bản: Cán cân thương mại (Tháng 10)T:--
D: --
T: --
Nhật Bản: GDP danh nghĩa (Đã sửa đổi) QoQ (Quý 3)T:--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Nhập khẩu YoY (CNH) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Giá trị xuất khẩu (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Nhập khẩu (CNH) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Cán cân thương mại (CNH) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Xuất khẩu YoY (USD) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Nhập khẩu YoY (USD) (Tháng 11)T:--
D: --
T: --
Đức: Giá trị sản xuất công nghiệp MoM (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 10)T:--
D: --
Khu vực Đồng Euro: Chỉ số niềm tin nhà đầu tư của Sentix (Tháng 12)T:--
D: --
T: --
Canada: Chỉ số niềm tin kinh tế quốc giaT:--
D: --
T: --
Vương Quốc Anh: Doanh số bán lẻ Like-For-Like BRC YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Vương Quốc Anh: Doanh số bán lẻ BRC YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Úc: Lãi suất cho vay qua đêm--
D: --
T: --
Quyết định lãi suất RBA
Họp báo RBA
Đức: Xuất khẩu MoM (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 10)--
D: --
T: --
Mỹ: Chỉ số lạc quan của các doanh nghiệp nhỏ NFIB (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)--
D: --
T: --
Mexico: Lạm phát 12 tháng (CPI) (Tháng 11)--
D: --
T: --
Mexico: CPI lõi YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Mexico: PPI YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Mỹ: Doanh thu bán lẻ hàng tuần của Johnson Redbook YoY--
D: --
T: --
Mỹ: Cơ hội việc làm JOLTS (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 10)--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Cung tiền M1 YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Cung tiền M0 YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: Cung tiền M2 YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo triển vọng dầu thô ngắn hạn trong năm nay của EIA (Tháng 12)--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo sản lượng khí thiên nhiên trong năm tới của EIA (Tháng 12)--
D: --
T: --
Mỹ: Dự báo sản lượng dầu thô ngắn hạn trong năm tới của EIA (Tháng 12)--
D: --
T: --
Triển vọng năng lượng ngắn hạn hàng tháng của EIA
Mỹ: Tồn trữ xăng dầu hàng tuần API--
D: --
T: --
Mỹ: Tồn trữ dầu thô hàng tuần API--
D: --
T: --
Mỹ: Tồn trữ dầu thô hàng tuần API--
D: --
T: --
Mỹ: Tồn trữ sản phẩm chưng cất hàng tuần API--
D: --
T: --
Hàn Quốc: Tỷ lệ thất nghiệp (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 11)--
D: --
T: --
Nhật Bản: Chỉ số tâm lý Tankan của Reuters đối với các nhà phi sản xuất (Tháng 12)--
D: --
T: --
Nhật Bản: Chỉ số tâm lý Tankan của Reuters đối với các nhà sản xuất (Tháng 12)--
D: --
T: --
Nhật Bản: Chỉ số giá hàng hóa doanh nghiệp MoM (Tháng 11)--
D: --
T: --
Nhật Bản: Chỉ số giá hàng hóa doanh nghiệp YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: PPI YoY (Tháng 11)--
D: --
T: --
Trung Quốc Đại Lục: CPI MoM (Tháng 11)--
D: --
T: --
Ý: Giá trị sản xuất công nghiệp YoY (Điều chỉnh theo mùa) (Tháng 10)--
D: --
T: --


Không có dữ liệu phù hợp
Xem tất cả kết quả tìm kiếm

Không có dữ liệu
Trong khi nhóm cổ phiếu có vốn hóa lớn nhất thị trường tiếp tục điều chỉnh, VN-Index vẫn duy trì sắc xanh trong tháng 11. Sự lệch nhịp này cho thấy đà tăng của thị trường đang được dẫn dắt mạnh hơn bởi các nhóm ngành ngoài ngân hàng.
Kết thúc tháng 11, VN-Index đạt 1,690.99 điểm, tăng 3.13% so với cuối tháng 10. Trái lại, chỉ số ngành ngân hàng giảm 1.91% xuống 958.48 điểm, theo dữ liệu VietstockFinance.
Vốn hóa lao dốc tháng thứ ba liên tiếp
Vốn hóa toàn ngành ngân hàng tính đến phiên 28/11 còn hơn 2.6 triệu tỷ đồng, mất thêm 28 ngàn tỷ đồng (tương ứng 1.1%) so với cuối tháng 10 và ghi nhận tháng giảm thứ ba liên tiếp.
Đà giảm giá cổ phiếu tiếp tục “thổi bay” vốn hóa, trong đó nhóm quốc doanh ghi nhận VCB giảm 4%, BID giảm 1%, còn CTG gần như đi ngang. Nhóm ngân hàng tư nhân có mức điều chỉnh sâu hơn, lên tới 12%, trong khi số mã tăng mạnh nhất chỉ đạt 11%, không đủ bù đắp xu hướng chung.
Nguồn: VietstockFinance
Thanh khoản rơi về đáy 5 tháng
Diễn biến kém tích cực của cổ phiếu ngân hàng còn bị kéo xuống bởi thanh khoản “tụt áp”. Bình quân tháng 11, khối lượng giao dịch chỉ đạt 229 triệu cp/phiên, giảm 34% so với tháng trước; giá trị giao dịch bình quân giảm 38% xuống còn 5,635 tỷ đồng/phiên – mức thấp nhất trong 5 tháng.
Đà giảm thanh khoản lan rộng ở hầu hết các nhóm vốn hóa. Mức giảm mạnh nhất lên tới 70% (NVB), trong khi mã tăng mạnh nhất chỉ đạt 22% (SGB).
SHB tiếp tục dẫn đầu toàn ngành với bình quân 67 triệu cp/phiên dù giảm 33%; ngược lại BAB vẫn là mã kém thanh khoản nhất với chưa đến 6 ngàn cp/ngày, giảm 44%.
Nguồn: VietstockFinance
Khối ngoại thu hẹp lực bán
Chuỗi bán ròng của khối ngoại đối với cổ phiếu ngân hàng đã kéo dài 4 tháng liên tiếp, với tổng khối lượng gần 131 triệu cp (tương đương 5,230 tỷ đồng). Tuy nhiên, đây là mức bán ròng thấp nhất trong 8 tháng trở lại đây.
MBB và STB là hai mã chịu áp lực xả mạnh nhất, tổng giá trị hơn 3,300 tỷ đồng. Ở chiều ngược lại, VPB, SHB và TPB ghi nhận dòng tiền mua ròng hàng trăm tỷ đồng.
Khang Di
FILI - 19:00:00 02/12/2025
MỚI
Cuộc đua tiền gửi cuối năm: Ngân hàng tăng lãi suất, phát quà liền tay
Cuộc đua huy động vốn dịp cuối năm 2025 giữa các ngân hàng đang diễn ra sôi động chưa từng có, với cả ngân hàng lớn lẫn tư nhân tham gia mạnh mẽ.
Nhóm Big4 như Vietcombank, VietinBank, Techcombank, Agribank tung ra các chương trình ưu đãi, quà tặng, điểm Loyalty, đồng thời tăng lãi suất huy động lên đến 6,75–6,9%/năm cho khách hàng đặc quyền.
Các ngân hàng tư nhân như Vikki Bank, MBV, BVBank, NCB, Nam A Bank hay VietBank cũng áp dụng lãi suất cao, chứng chỉ tiền gửi và quay số trúng thưởng với giải đặc biệt là ô tô, vàng, kim cương hay các chuyến du lịch, nhằm thu hút dòng vốn phục vụ nhu cầu tín dụng cuối năm.
Cuộc đua này phản ánh áp lực tăng trưởng tín dụng và nhu cầu vốn mạnh mẽ trên thị trường hiện nay.

VIC tiếp tục dẫn dắt với mức đóng góp vượt trội, cùng nhóm Vingroup là VHM và VPL củng cố đà tăng, giúp chỉ số VN-Index duy trì nhịp phục hồi trong tuần 17-21/11 bất chấp sự phân hóa của thị trường.
Thị trường chứng khoán Việt Nam ghi nhận sự phân hóa rõ nét trong tuần 17-21/11. VN-Index đóng cửa tại 1.654,93 điểm, tăng 19.47 điểm, tương đương 1.19% so với tuần trước và nối tiếp đà phục hồi. Ngược lại, HNX-Index giảm 4.48 điểm xuống 263.13 điểm sau một tuần hồi phục trước đó.
Thanh khoản cũng phân hóa theo chiều tương tự. Giá trị giao dịch bình quân trên HOSE tăng 7% lên gần 760.5 triệu cp/phiên, trong khi HNX giảm 6% còn 71.5 triệu cp/ hiên.
VIC tiếp tục là động lực mạnh nhất của thị trường khi đóng góp hơn 16.6 điểm cho VN-Index, vượt xa toàn bộ phần còn lại. Cùng nhóm Vingroup, VHM góp hơn 5 điểm và VPL thêm hơn 1 điểm, giúp bộ 3 này nâng đỡ tới hơn 22.7 điểm cho chỉ số.
Nhóm ngân hàng xuất hiện 4 mã tác động tích cực gồm STB và VPB cùng đóng góp khoảng 1.4 điểm, HDB mang về hơn 1.2 điểm và CTG khoảng 0.7 điểm.
Ở chiều ngược lại, ngành ngân hàng cũng đồng thời là tâm điểm tiêu cực khi có 5 mã gây sức ép lên chỉ số. VCB và TCB dẫn đầu mức ảnh hưởng xấu với mức giảm lần lượt gần 1.9 điểm và hơn 1.3 điểm. BID, LPB và MBB tiếp tục gây giảm gần 1.2 điểm, 0.9 điểm và 0.5 điểm.
Nhóm cổ phiếu ảnh hưởng đến chỉ số VN-Index từ ngày 17-21/11 (tính theo điểm)
Trong rổ VN30, sắc xanh suy giảm còn 14/30 mã tăng. VIC vẫn vượt trội khi đóng góp gần 17.4 điểm, tạo khoảng cách lớn với các mã còn lại. VJC mang về hơn 7.6 điểm, VHM đóng góp khoảng 4.6 điểm và STB hơn 4 điểm, là những mã nổi bật trong nhóm tăng. Ở chiều giảm, VNM dẫn đầu mức ảnh hưởng tiêu cực khoảng 3.6 điểm, theo sau là LPB, MWG và TCB với mức giảm từ 2.2-2.5 điểm.
Nhóm cổ phiếu kéo tăng chỉ số VN30-Index từ ngày 17-21/11 (tính theo điểm)
Nhóm cổ phiếu kéo giảm chỉ số VN30-Index từ ngày 17-21/11 (tính theo điểm)
HNX-Index điều chỉnh khi KSF kéo giảm hơn 2.8 điểm, áp đảo toàn bộ nhóm giảm còn lại như SHS, HUT và KSV chỉ giảm khoảng 0.5 điểm mỗi mã. Chiều hỗ trợ khá mỏng khi DNP tăng hơn 0.3 điểm và NVB chỉ nhích nhẹ hơn 0.1 điểm.
Nhóm cổ phiếu ảnh hưởng đến chỉ số HNX-Index từ ngày 17-21/11 (tính theo điểm)
Thế Mạnh
FILI - 19:28:00 22/11/2025

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của hệ thống ngân hàng tiếp tục xu hướng phục hồi trong quý 3. Việc nợ xấu được kiểm soát tốt giúp các ngân hàng có thêm thời gian để bồi đắp bộ đệm sau giai đoạn sụt giảm mạnh lúc trước. Mỗi ngân hàng thực hiện các chính sách trích lập dự phòng khác nhau dựa trên định hướng chiến lược riêng, từ đó tạo nên sự phân hóa trong chính sách trích lập dự phòng giữa các nhóm.
Trong quý 3, các ngân hàng tiếp tục duy trì sự chủ động trong việc củng cố khả năng hấp thụ rủi ro. Song, chi phí dự phòng chỉ tăng ở mức thấp, cho thấy áp lực bổ sung dự phòng chưa lớn. Mặt khác, điều này cũng thể hiện những ưu tiên nguồn lực của ngân hàng vào các mục tiêu tăng trưởng khác, hơn là mở rộng trích lập dự phòng.
Báo cáo tài chính quý 3/2025 mang đến cái nhìn rõ nét hơn về tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của hệ thống ngân hàng, với những tín hiệu tích cực sau khi ngành bước qua giai đoạn khó khăn nhất liên quan đến chất lượng danh mục cho vay. Tốc độ hình thành nợ xấu đã giảm đáng kể, góp phần hạ nhiệt áp lực lên bộ đệm dự phòng. Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang được đẩy mạnh, các ngân hàng vẫn ưu tiên phân bổ nguồn lực cho mở rộng cho vay, chi phí dự phòng tiếp tục tăng theo chu kỳ, nhưng không xuất hiện dấu hiệu trích lập mạnh như các giai đoạn căng thẳng trước đó.
Bức tranh chung cũng cho thấy sự phân hóa ngày càng rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng. Nhóm quốc doanh tập trung gia cố lại bộ đệm, phản ánh chiến lược tăng bộ đệm phòng thủ sau giai đoạn nợ xấu tăng nhanh. Ngược lại, nhóm ngân hàng bán lẻ và nhóm quy mô nhỏ ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu cải thiện nhờ kiểm soát chặt hơn tốc độ phát sinh nợ xấu và duy trì đà trích lập vừa phải.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng bán buôn lại điều chỉnh giảm tỷ lệ bao phủ trong ngắn hạn do ảnh hưởng từ việc nợ xấu tăng nhanh hơn. Nhìn chung, các ngân hàng vẫn duy trì mức trích lập đều đặn, ưu tiên nâng cao hiệu quả quản trị và xử lý nợ để giảm gánh nặng dự phòng. Điều này phản ánh chiến lược chủ đạo trong quý 3: thay vì tăng mạnh trích lập, các ngân hàng hướng tới giữ bộ đệm ở mức cân bằng - đủ để bảo đảm an toàn hệ thống nhưng không làm ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận của năm.
Đánh giá nợ xấu và mức bao phủ nợ xấu của ngành ngân hàng
Trong quý 3/2025, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) toàn ngành đạt 83.93%, nhích lên so với mức 82.54% của cùng kỳ. Quan trọng hơn, so với hai quý đầu năm, tỷ lệ này đã cải thiện rõ rệt khi tăng từ mức 79.32% của quý 2.
Để lý giải biến động của tỷ lệ LLR, cần phân tích hai cấu phần chính: số dư dự phòng đã trích lập trong kỳ, và diễn biến quy mô nợ xấu. Về nợ xấu, tổng nợ xấu của các ngân hàng niêm yết tăng 8.1% so với cùng kỳ - một mức tăng đã chậm lại rõ rệt so với các năm 2022-2024. Ở chiều ngược lại, quy mô dự phòng nợ xấu đã đạt khoảng 230,000 tỷ đồng, tương ứng tăng 9.9% so với cùng kỳ và 11.3% so với đầu năm. Đây là mức tăng cao so với tốc độ trung bình 8% từ năm 2023 đến nay.
Để nâng bộ đệm dự phòng, riêng trong quý 3, ngành ngân hàng đã trích lập thêm hơn 35,500 tỷ đồng. Đáng chú ý, dự phòng chung tăng mạnh 14.85% so với cuối năm 2024 (tương đương 20.7% YoY), trong khi dự phòng cụ thể chỉ tăng khoảng 8.64% (tương đương 2.8% YoY).
Khác với giai đoạn 2021-2022 khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhưng phần tăng dự phòng chủ yếu đến từ bổ sung dự phòng cụ thể (phản ánh chất lượng tài sản xấu đi) đợt tăng dự phòng hiện tại mang tính phòng thủ và củng cố bộ đệm, hơn là phát sinh các vấn đề mới về chất lượng tín dụng. Điều này cho thấy các ngân hàng đang chủ động chuẩn bị cho chu kỳ tín dụng tăng nhanh và các rủi ro tiềm ẩn có thể xuất hiện trong giai đoạn cao điểm cuối năm.
Diễn biến tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành
Đối với bao phủ nợ xấu, khối ngân hàng quốc doanh là nhóm có tỷ lệ LLR cao nhất hệ thống. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu trong quý 3 đạt 139.1%, thấp hơn đáng kể so với 164.5% của năm 2024 và 188.46% của năm 2023, do tác động từ nợ xấu tăng mạnh trong các quý trước. Tuy vậy, nếu nhìn theo chiều ngang từng quý trong năm, bộ đệm của nhóm lại đang tăng trở lại rõ rệt, từ mức 132% của quý 1 và 126% của quý 2 lên gần 140% trong quý 3. Sự phục hồi này xuất phát từ việc xử lý nợ xấu hiệu quả hơn khi tốc độ tăng nợ xấu đã chậm lại trong kỳ, đồng thời số dư dự phòng chung tiếp tục được củng cố với mức tăng 16-17% so với cùng kỳ.
Ở khối ngân hàng tư nhân, diễn biến tương đối tích cực. Nhóm ngân hàng bán lẻ ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng từ 61.84% lên 64.4%, nhờ nợ xấu chỉ tăng 8.5% so với cùng kỳ - mức thấp nhất kể từ đầu năm 2022. Đây là tín hiệu cho thấy áp lực chất lượng tài sản của nhóm đang dần hạ nhiệt.
Nhóm ngân hàng khác đạt tỷ lệ bao phủ khoảng 41.87%, mức cao nhất trong ba năm gần đây, phản ánh nỗ lực củng cố dự phòng sau giai đoạn căng thẳng từ năm 2023. Dù vậy, nhóm này vẫn còn cách khá xa mức trung bình 65% trước đại dịch và cần tiếp tục tăng cường dự phòng để tiệm cận ngưỡng an toàn trước đây.
Ngược lại, nhóm ngân hàng bán buôn ghi nhận xu hướng kém khả quan hơn. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ 69.54% của cùng kỳ xuống 65.7%, dù chi phí dự phòng trong quý 2 và quý 3 đã được đẩy mạnh, tăng hơn 50% YoY. Nguyên nhân chính là quy mô nợ xấu của nhóm tăng tới 25% YoY, khiến nỗ lực gia tăng dự phòng chưa đủ để bù đắp áp lực chất lượng tài sản. Diễn biến này cho thấy phân hóa rõ nét trong hệ thống, khi một số nhóm ngân hàng đã bước vào giai đoạn phục hồi bộ đệm, trong khi nhóm bán buôn cần đẩy mạnh hơn hiệu quả quản trị nợ xấu.
Diễn biến mức bao phủ nợ xấu của từng ngân hàng
Diễn biến quý 3 cho thấy sự phân hóa rõ rệt khi chỉ khoảng một nửa số ngân hàng cải thiện được tỷ lệ bao phủ nợ xấu, trong khi phần còn lại đi xuống so với cùng kỳ.
Ở nhóm quốc doanh, VCB tiếp tục dẫn đầu hệ thống với tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức 201.86%. Việc đẩy mạnh trích lập chi phí dự phòng của VCB trong kỳ (+138.2% YoY) cho thấy những nỗ lực tái cơ cấu lại bộ đệm dự phòng sau giai đoạn giảm mạnh trong những năm qua để duy trì mức lợi nhuận khi NIM sụt giảm mạnh.
BID cũng ghi nhận mức giảm mạnh của bộ đệm, từ 115.73% xuống 94.53%, phần lớn do nợ nhóm 5 tăng đột biến hơn 45% so với đầu năm. Điều này buộc BID phải tăng tốc trích lập trong hai quý gần đây để bù đắp áp lực rủi ro gia tăng.
Ngược lại, CTG cải thiện đáng kể tỷ lệ bao phủ nợ xấu từ 153.01% lên 176.48%, nhờ quy mô nợ xấu giảm so với cùng kỳ và so với quý trước. Với số dư dự phòng tích lũy trước đó và tỷ lệ nợ xấu duy trì ổn định giúp CTG nâng bộ đệm tổng thể, đặc biệt là phần dự phòng chung.
Nhóm ngân hàng bán lẻ chứng kiến sự cải thiện rõ rệt về tỷ lệ bao phủ nợ xấu, thu hẹp khoảng cách với nhóm bán buôn trong năm nay. Đáng chú ý là STB, tỷ lệ LLR tăng vọt lên 93.26% trong quý 3, từ 75% của quý trước, chủ yếu nhờ bổ sung mạnh vào dự phòng cụ thể. Điều này diễn ra trong bối cảnh nợ xấu của STB tiếp tục tăng lên 2.75%, cao hơn mức 2.5% của quý 2 và cùng kỳ, trong khi nợ nhóm 5 chiếm gần 70% tổng nợ xấu, tạo áp lực buộc ngân hàng phải củng cố dự phòng.
ACB, TPB và VPB cũng cải thiện tỷ lệ bao phủ, ghi nhận lần lượt 84.02%, 61.22% và 55.05% trong quý 3. Ngược lại, VIB giảm gần 8% so với cùng kỳ, do mức trích lập tương đương cùng kỳ trong khi quy mô nợ xấu tăng nhẹ, khiến bộ đệm chung bị mỏng đi tương đối.
Diễn biến tỷ lệ bao phủ nợ xấu từng ngân hàng
Đối với nhóm ngân hàng bán buôn, xu hướng suy giảm tỷ lệ bao phủ nợ xấu nhìn chung diễn ra phổ biến. TCB và MBB là hai ngoại lệ hiếm hoi, duy trì được bộ đệm tương đối tốt với tỷ lệ bao phủ lần lượt 119.24% và 79.21%. Bên cạnh việc đáp ứng trích lập dự phòng cụ thể theo quy định, cả hai ngân hàng đều tăng mạnh phần dự phòng chung, trên 20% so với cùng kỳ, cho thấy chiến lược củng cố bộ đệm thận trọng hơn.
Ngược lại, SSB và MSB chứng kiến mức giảm khoảng 9% so với cùng kỳ, trong bối cảnh chi phí dự phòng đi xuống trong khi tổng nợ xấu tăng nhẹ. Đáng chú ý nhất là HDB, nơi tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm mạnh từ 65.87% xuống 43.37% trong quý 3. Sự suy giảm sâu này phản ánh sức ép đáng kể từ phía rủi ro tín dụng, khi nợ xấu lũy kế 9/2025 của HDB tăng tới 66%, vượt xa tốc độ bổ sung dự phòng.
Ở nhóm ngân hàng khác, BAB tiếp tục là ngân hàng nổi bật nhất về chất lượng bộ đệm, duy trì tỷ lệ bao phủ trên 100%, đạt 108.37% trong quý 3. Đây cũng là ngân hàng có nợ xấu thấp nhất nhóm, khi quy mô nợ xấu chỉ tăng khoảng 5% từ đầu năm trong khi số dư dự phòng tăng 16.41%, cho thấy chiến lược trích lập chủ động.
VBB và BVB cũng ghi nhận sự cải thiện rõ rệt, đạt lần lượt 49.95% và 47.17%. Dù chi phí dự phòng không tăng mạnh, hai ngân hàng vẫn mở rộng được bộ đệm nhờ kiểm soát tốt tốc độ tăng nợ xấu, qua đó giảm áp lực trích lập.
Ở chiều ngược lại, VAB và EIB giảm khoảng 5% so với cùng kỳ, chủ yếu do nợ xấu tăng nhanh hơn trong quý 3 trong khi mức tăng dự phòng lại hạn chế, khiến tỷ lệ bao phủ bị thu hẹp đáng kể.
Tổng thể, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng trong quý 3 cho thấy xu hướng cải thiện, chủ yếu nhờ tốc độ tăng trưởng nợ xấu đã hạ nhiệt đáng kể và nhiều ngân hàng tiếp tục bổ sung đều đặn phần dự phòng chung. Tuy nhiên, sự cải thiện này không mang tính đồng đều, khi vẫn có những ngân hàng ghi nhận tỷ lệ bao phủ suy giảm do hiệu quả kiểm soát nợ xấu chưa thực sự rõ nét.
Lê Hoài Ân, CFA
fili - 07:00:00 21/11/2025
10 ngân hàng có định giá theo P/B rẻ nhất 9 tháng năm 2025
ABBank là ngân hàng có P/B thấp nhất, ở mức 0,83 lần tại ngày 30/9. Giá trị sổ sách mỗi cổ phiếu của ABBank đang là 15.302 đồng/cp, theo báo cáo tài chính quý III, trong khi giá chốt phiên hôm 30/9 chỉ là 12.300 đồng/cp.
10 ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhất 9 tháng năm 2025
4 ngân hàng duy trì được tỷ lệ bao phủ trên ngưỡng 100% là Vietcombank, VietinBank, Techcombank, Bac A Bank.
Đóng góp hơn 10 điểm cho chỉ số, VIC giữ vai trò trung tâm trong nhịp phục hồi của VN-Index tuần qua. Nhóm ngân hàng cùng các mã đầu ngành VNM, MWG, HPG đồng loạt gia tăng ảnh hưởng, giúp thị trường bật lại sau giai đoạn suy yếu kéo dài.
Sau 4 tuần giảm liên tục, VN-Index khép lại tuần 10-14/11 với trạng thái hồi phục rõ nét, tăng 2.27% lên 1,635.46 điểm. HNX-Index cũng cải thiện 2.88% và kết tuần tại 267.61 điểm. Dù vậy, dòng tiền vẫn suy yếu khi thanh khoản HOSE bình quân chỉ dưới 712 triệu cp/phiên, giảm hơn 17% so với tuần trước; HNX cũng lùi hơn 29% xuống còn 76 triệu cp/phiên.
Tâm điểm của tuần là VIC khi tiếp tục giữ vị thế cổ phiếu ảnh hưởng mạnh nhất tới chỉ số, đóng góp hơn 10.1 điểm cho VN-Index. Cùng nhóm Vingroup, VHM cũng gia tăng tác động với hơn 2.1 điểm.
Ngoài Vingroup, lực nâng còn đến từ nhóm ngân hàng sau một tuần suy yếu trước đó. TCB quay lại nhóm hỗ trợ mạnh với hơn 3.4 điểm, trong khi BID, VCB và SHB đóng góp từ 1.1-1.4 điểm mỗi mã. Các đầu tàu vốn hóa lớn như VNM, MWG, HPG và SSI cũng tạo biên độ tăng đồng thuận, đóng góp lần lượt hơn 2.5 điểm, 1.6 điểm, 1.5 điểm và gần 1 điểm, qua đó củng cố độ rộng và chất lượng của nhịp phục hồi.
Chiều giảm khá yếu, khi mã kìm hãm nhiều nhất là HVN cũng chỉ lấy đi chưa tới 0.8 điểm, tiếp theo là CTG hơn 0.5 điểm; các mã như FPT hay VJC chỉ gây ảnh hưởng quanh 0.2-0.3 điểm, cho thấy áp lực điều chỉnh nhìn chung không đáng kể.
Nhóm cổ phiếu ảnh hưởng đến chỉ số VN-Index từ ngày 10-14/11 (tính theo điểm)
VN30 và HNX-Index củng cố thêm xu hướng tích cực
Rổ VN30 bật mạnh trở lại với 22/30 mã tăng. VIC tiếp tục dẫn đầu đóng góp hơn 10.5 điểm, theo sau là MWG hơn 8.2 điểm, VNM 6.7 điểm, trong khi HPG và TCB cũng đóng góp khoảng 5.5 điểm mỗi mã. Ở chiều giảm, FPT đứng đầu nhưng chỉ lấy đi hơn 1.5 điểm; còn lại đa phần mức giảm rất nhỏ, tập trung ở một số ngân hàng như HDB, STB, CTG hay SSB.
Nhóm cổ phiếu kéo tăng chỉ số VN30-Index từ ngày 10-14/11 (tính theo điểm)
Nhóm cổ phiếu kéo giảm chỉ số VN30-Index từ ngày 10-14/11 (tính theo điểm)
HNX-Index chấm dứt chuỗi 3 tuần giảm nhờ đóng góp khá đồng đều từ PVI (+1.6 điểm), IDC (+1.1 điểm) và nhóm HUT, CEO, SHS, MBS, mỗi mã nâng từ 0.6-0.8 điểm. Lực giảm hầu như không đáng kể, khi KSV điều chỉnh nhẹ hơn 0.2 điểm và HGM, DTK quanh 0.1 điểm.
Nhóm cổ phiếu ảnh hưởng đến chỉ số HNX-Index từ ngày 10-14/11 (tính theo điểm)
Thế Mạnh
FILI - 19:28:00 15/11/2025
Nhãn trắng
Data API
Tiện ích Website
Công cụ thiết kế Poster
Chương trình Tiếp thị Liên kết
Giao dịch các công cụ tài chính như cổ phiếu, tiền tệ, hàng hóa, hợp đồng tương lai, trái phiếu, quỹ hoặc tiền kỹ thuật số tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, bao gồm rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư, và có thể không phù hợp với mọi nhà đầu tư.
Trước khi quyết định giao dịch các công cụ tài chính hoặc tiền điện tử, bạn cần hiểu đầy đủ về rủi ro và chi phí giao dịch trên thị trường tài chính, thận trọng cân nhắc đối tượng đầu tư, và tiến hành tư vấn chuyên môn cần thiết. Dữ liệu trên trang web này không nhất thiết là theo thời gian thực hay chính xác. Dữ liệu và giá cả trên trang web không nhất thiết là thông tin do bất kỳ sở giao dịch nào cung cấp, nhưng có thể được cung cấp bởi các nhà tạo lập thị trường. Bạn chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả quyết kết giao dịch bạn đã thực hiện. Chúng tôi không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào trước bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào xảy ra từ kết quả giao dịch của bạn, hoặc trước việc bạn dựa vào thông tin có trong trang web này.
Bạn không được phép sử dụng, lưu trữ, sao chép, hiển thị, sửa đổi, truyền hay phân phối dữ liệu có trên trang web này và chưa nhận được sự cho phép rõ ràng bằng văn bản của Trang web này. Tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều được bảo hộ bởi các nhà cung cấp và/hoặc sở giao dịch cung cấp dữ liệu có trên trang web này.
Chưa đăng nhập
Đăng nhập để xem nội dung nhiều hơn

FastBull VIP
Chưa nâng cấp
Nâng cấp
Đăng nhập
Đăng ký