行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值












VIP跟單
所有跟單
所有比賽



英國對非歐盟貿易帳 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
英國貿易帳 (10月)公:--
預: --
前: --
英國服務業指數月增率公:--
預: --
前: --
英國建築業產出月增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
英國工業產出年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
英國貿易帳 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
英國對歐盟貿易帳 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
英國製造業產出年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
英國GDP月增率 (10月)公:--
預: --
前: --
英國GDP年增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
英國工業產出月增率 (10月)公:--
預: --
前: --
英國建築業產出年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
法國HICP月增率終值 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸未償還貸款增長年增率 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸M2貨幣供應量年增率 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸M0貨幣供應量年增率 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸M1貨幣供應量年增率 (11月)公:--
預: --
前: --
印度CPI年增率 (11月)公:--
預: --
前: --
印度存款增長年增率公:--
預: --
前: --
巴西服務業增長年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
墨西哥工業產值年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
俄羅斯貿易帳 (10月)公:--
預: --
前: --
費城聯邦儲備銀行主席保爾森發表講話
加拿大營建許可月增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
加拿大批發銷售年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
加拿大批發庫存月增率 (10月)公:--
預: --
前: --
加拿大批發庫存年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
加拿大批發銷售月增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
德國貿易經常帳 (未季調) (10月)公:--
預: --
前: --
美國當週鑽井總數公:--
預: --
前: --
美國當周石油鑽井總數公:--
預: --
前: --
日本短觀大型非製造業景氣判斷指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀小型製造業前景指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀大型非製造業前景指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀大型製造業前景指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀小型製造業景氣判斷指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀大型製造業景氣判斷指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀大型企業資本支出年增率 (第四季度)--
預: --
前: --
英國Rightmove住宅銷售價格指數年增率 (12月)--
預: --
前: --
中國大陸工業產出年增率 (年初至今) (11月)--
預: --
前: --
中國大陸城鎮失業率 (11月)--
預: --
前: --
沙地阿拉伯CPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
歐元區工業產出年增率 (10月)--
預: --
前: --
歐元區工業產出月增率 (10月)--
預: --
前: --
加拿大成屋銷售月增率 (11月)--
預: --
前: --
歐元區儲備資產總額 (11月)--
預: --
前: --
英國通膨預期--
預: --
前: --
加拿大全國經濟信心指數--
預: --
前: --
加拿大新屋開工率 (11月)--
預: --
前: --
美國紐約聯邦儲備銀行製造業就業指數 (12月)--
預: --
前: --
美國紐約聯邦儲備銀行製造業指數 (12月)--
預: --
前: --
加拿大核心消費者物價指數 (CPI) 年增率 (11月)--
預: --
前: --
加拿大製造業未完成訂單月增率 (10月)--
預: --
前: --
加拿大製造業新訂單月增率 (10月)--
預: --
前: --
加拿大核心消費者物價指數 (CPI) 月增率 (11月)--
預: --
前: --
加拿大製造業庫存月增率 (10月)--
預: --
前: --
加拿大CPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
加拿大CPI月增率 (11月)--
預: --
前: --
加拿大CPI年增率 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
加拿大核心消費者物價指數 (CPI) 月增率 (季調後) (11月)--
預: --
前: --


無匹配數據
Tìm lối thoát cho ngành gỗ giữa áp lực cạnh tranh
Các doanh nghiệp gỗ có nền tảng tài chính mạnh, có nhiều đối tác xuất khẩu và mạng lưới phân phối lớn là những doanh nghiệp tốt để đầu tư dài hạn.
Chính sách bảo hộ thương mại dưới thời ông Donald Trump đặt ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu vào Mỹ, đặc biệt là ngành gỗ. Trước áp lực này, nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ đang chủ động mở rộng thị trường để giảm rủi ro.
Áp lực gia tăng từ thị trường xuất khẩu chủ lực
Gần đây, Tổng thống Mỹ đã chỉ đạo Bộ Thương mại tiến hành điều tra về việc nhập khẩu gỗ xẻ, không lâu sau tuyên bố có thể áp thuế quan 25% lên mặt hàng này. Đáng chú ý, cuộc điều tra mở rộng sang cả các sản phẩm phái sinh từ gỗ xẻ, bao gồm đồ nội thất, tạo ra mối lo ngại lớn cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ vào Mỹ. Đây là thị trường mang lại kim ngạch gần 9 tỷ USD trong năm 2024, chiếm 54,8% tổng giá trị xuất khẩu gỗ của Việt Nam.
Năm 2024, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt kỷ lục 16,25 tỷ USD, với ba thị trường lớn nhất lần lượt là Mỹ, Trung Quốc (2,04 tỷ USD, chiếm 12,54%) và Nhật Bản (1,72 tỷ USD, chiếm 10,56%). Các thị trường tiếp theo như Hàn Quốc, Canada, Anh, Ấn Độ, Hà Lan… có giá trị xuất khẩu dưới 1 tỷ USD.
Bước sang năm 2025, ngành gỗ đặt mục tiêu đạt 18 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu. Chỉ trong hai tháng đầu năm, doanh thu xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ đạt 2,5 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo Kirin Capital, triển vọng tăng trưởng dài hạn của ngành gỗ Việt Nam vẫn khả quan nhờ ba yếu tố: Thứ nhất, việc tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) giúp mở rộng mạng lưới xuất khẩu. Thứ hai, doanh nghiệp trong nước có cơ hội gia tăng thị phần khi thị trường nội địa còn nhiều tiềm năng. Thứ ba, nguồn tài nguyên rừng dồi dào và tỷ lệ trồng rừng mới ổn định tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Theo Đề án Phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ bền vững giai đoạn 2021 - 2030, giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản được kỳ vọng đạt 20 tỷ USD vào năm 2025 (trong đó, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt trên 18,5 tỷ USD) và 25 tỷ USD vào năm 2030. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, ngành này vẫn đối mặt với thách thức từ các hàng rào thương mại, yêu cầu truy xuất nguồn gốc chặt chẽ từ Mỹ, EU cùng với chính sách thuế quan dưới thời Tổng thống Donald Trump.
Chủ động thích ứng, mở rộng thị trường
Trước bối cảnh này, doanh nghiệp gỗ Việt Nam đang tích cực tìm kiếm thị trường mới để giảm thiểu rủi ro từ thị trường Mỹ.
Công ty cổ phần Chế biến Gỗ Thuận An (GTA) đã công bố kế hoạch kinh doanh năm 2025 với mục tiêu doanh thu 275 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 10,8 tỷ đồng, tăng lần lượt 5,3% và 12,5% so với năm trước. Trong quý I, công ty kỳ vọng đạt 64,2 tỷ đồng doanh thu và 1,6 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, trong khi quý II đặt mục tiêu 48,6 tỷ đồng doanh thu và 1,9 tỷ đồng lợi nhuận. Gỗ Thuận An nhấn mạnh việc "thúc đẩy cơ hội tìm kiếm đơn hàng và khách hàng mới" để duy trì tăng trưởng.
Tương tự, Công ty cổ phần Kỹ nghệ Gỗ Trường Thành (TTF) đang tập trung củng cố quan hệ với khách hàng hiện hữu, mở rộng mạng lưới đối tác chiến lược và cải tiến sản phẩm. Ngoài ra, công ty cũng chủ động tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu ổn định, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và điều chỉnh linh hoạt kế hoạch sản xuất để ứng phó với biến động kinh tế toàn cầu.
Các chuyên gia nhận định, để duy trì lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp gỗ cần nâng cao năng lực chế biến, ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm gia tăng giá trị sản phẩm và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về phát triển bền vững (FSC). Đây là yếu tố quan trọng đối với phân khúc đồ gỗ ngoại thất, vốn được ưa chuộng tại thị trường Mỹ và EU.
Về thị trường nội địa, Kirin Capital cho biết khoảng 90% đồ nội thất cao cấp trong nước vẫn là hàng nhập khẩu, chủ yếu từ châu Âu và Nhật Bản. Với quy mô lên tới 10 tỷ USD, thị trường nội địa mở ra cơ hội lớn nếu doanh nghiệp tập trung vào chất lượng và thiết kế phù hợp.
Công ty cổ phần Gỗ MDF VRG Quảng Trị (MDF) cũng đã mở rộng xuất khẩu sang Trung Đông với sản lượng đáng kể. Trong năm 2024, công ty xuất khẩu 16.000 m³ gỗ bằng tàu rời, tạo tiền đề cho năm 2025 và các năm tiếp theo. Đối với thị trường trong nước, MDF tập trung vào Hà Nội, TP.HCM, Bình Dương với các dòng sản phẩm cao cấp, linh hoạt trong thiết kế nhằm cạnh tranh trực tiếp với hàng nhập khẩu từ Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc…
Nhìn chung, thích ứng linh hoạt với biến động thị trường là cách các doanh nghiệp gỗ Việt Nam duy trì đà tăng trưởng trong năm nay. Trên thị trường chứng khoán, nhiều cổ phiếu ngành gỗ đã tăng trưởng hai chữ số trong một năm qua, như PTB tăng 15%, GTD tăng hơn 14%, MDF tăng hơn 21%..., cho thấy niềm tin của nhà đầu tư vào tiềm năng của ngành này.
Khu công nghiệp Minh Hưng III giai đoạn 2 (phân kỳ 1) có quy mô 483.4ha, vị trí tại phường Minh Hưng, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Tổng vốn đầu tư 2,282 tỷ đồng.
Ngày 27/02, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký quyết định chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp (KCN) Minh Hưng III giai đoạn 2 (phân kỳ 1). Đồng thời, chấp thuận là nhà đầu tư là CTCP Khu Công nghiệp Cao su Bình Long (UPCoM: MH3).
Dự án có quy mô 483.4ha; tại phường Minh Hưng, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Tổng vốn đầu tư 2,282 tỷ đồng; trong đó, vốn góp của nhà đầu tư gần 391 tỷ đồng.
Tiến độ thực hiện dự án không quá 60 tháng kể từ ngày nhà đầu tư được Nhà nước bàn giao đất, cho thuê đất. Thời hạn hoạt động dự án từ ngày 27/02/2025 - 04/07/2058.
Vào giữa năm ngoái, MH3 cho biết thời gian để được chấp thuận quyết định chủ trương đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư KCN Minh Hưng III giai đoạn 2 có thể sẽ kéo dài và khi được chấp thuận, Công ty còn thực hiện các thủ tục pháp lý khác như giải phóng mặt bằng, lập dự án đầu tư, khảo sát địa chất, …
Do vậy, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán cổ phiếu, HĐQT MH3 sẽ dùng toàn bộ số tiền thu được từ đợt chào bán gần 336 tỷ đồng để gửi ngân hàng với kỳ hạn tối đa 12 tháng.
Tháng 10/2023, MH3 chào bán thành công 12 triệu cp giá 28,000 đồng/cp, thu về gần 336 tỷ đồng, nâng vốn điều lệ từ 120 tỷ đồng lên 240 tỷ đồng. Mục đích phát hành nhằm bổ sung vốn đối ứng đáp ứng điều kiện về năng lực tài chính cho dự án KCN Minh Hưng III giai đoạn 2.
Với thông tin tích cực này, giá cổ phiếu MH3 đã tăng kịch trần trong phiên sáng ngày 28/02 lên mức 38,900 đồng/cp, tăng 16% so với đầu năm 2025.
Diễn biến giá cổ phiếu MH3 từ đầu năm 2025
Cuối năm 2024, Ban quản lý Khu kinh tế tỉnh Bình Phước đã cấp giấy chứng nhận dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN Minh Hưng III - Cao su Bình Long cho MH3, diện tích gần 294ha (cấp lần đầu vào ngày 15/07/2008). Tổng vốn đầu tư 289 tỷ đồng; trong đó vốn điều lệ 120 tỷ đồng và vốn huy động 169 tỷ đồng.
KCN Minh Hưng III đã thu hút được các dự án đầu tư đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, trong đó có Nhà máy sản xuất gỗ MDF của CTCP MDF VRG Dongwha với tổng vốn đầu tư 160 triệu USD – là nhà máy gỗ MDF quy mô lớn nhất Châu Á, đang hoạt động tại đây.
Về hoạt động kinh doanh, năm 2024, MH3 mang về doanh thu thuần hơn 93 tỷ đồng, giảm 40% so với năm trước; lãi ròng hơn 48 tỷ đồng tăng 7%. Với kết quả này, Doanh nghiệp đã vượt 19% chỉ tiêu lợi nhuận cả năm.
KQKD MH3 từ năm 2014-2024
Trên địa bàn tỉnh Bình Phước hiện có 13 KCN với tổng diện tích gần 4,700 ha, trong đó có 6 KCN đã lấp đầy 100%; 7 KCN có tỷ lệ lấp đầy bình quân 38%. Đến năm 2030, Bình Phước dự kiến có 34 KCN với tổng diện tích 18,105ha.
Thanh Tú
FILI - 13:25:17 28/02/2025
Cập nhật KQKD quý 3 sáng 15/10: TNS báo LNTT 9 tháng gấp 277 lần cùng kỳ, DN điện lãi kỷ lục
Các doanh nghiệp mới công bố BCTC quý 3/2024:
CTCP Thép Tấm lá Thống Nhất (TNS) công bố báo cáo tài chính quý 3/2024 với doanh thu thuần gần 593 tỷ đồng, tăng gần 44% so với cùng kỳ và lãi trước thuế hơn 14 tỷ, tăng 365% so với cùng kỳ. Lũy kế 9 tháng đầu năm. TNS ghi nhận doanh thu thuần đạt 2.318 tỷ đồng, gấp 3,5 lần cùng kỳ và lãi trước thuế hơn 33 tỷ gấp 277 lần cùng kỳ chỉ 121 triệu đồng.
CTCP Cảng Xanh VIP (VGR) ghi nhận lợi nhuận trước thuế quý 3 tăng 9% đạt 93 tỷ đồng và lũy kế 9 tháng đầu năm đạt 303 tỷ đồng, tăng 44%. Công ty cho biết, nguyên nhân lợi nhuận tăng là do sản lượng hàng hóa qua cảng tăng 4,5% so với cùng kỳ đồng thời áp dụng biểu cước nội mới, nhiều máy móc thiết bị đã hết khấu hao dẫn đến giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
CTCP Khu công nghiệp Nam Tân Uyên (NTC)báo lợi nhuận trước thuế quý 3 giảm 17% đạt 74 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế 9 tháng đầu năm 2024 đạt 229 tỷ, giảm 15%.
CTCP Đầu tư và phát triển điện miền Bắc 2 (ND2) ghi nhận lợi nhuận sau thuế quý 3 đạt gần 102 tỷ đồng, đây là mức cao nhất từ khi lên sàn của doanh nghiệp. Lũy kế 9 tháng, ND2 lãi sau thuế 138 tỷ, tăng gần 53% so với cùng kỳ.
Quý 3/2024, Tập đoàn Hòa Phát (mã chứng khoán: HPG) ghi nhận 3.022 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, tăng 51% so với cùng kỳ năm trước. Trước đó, doanh nghiệp này cũng đã công bố doanh thu thuần đạt 34.000 tỷ đồng, tăng 19%.
Nhiều doanh nghiệp đã có đơn hàng xuất khẩu đến hết năm nay, thậm chí quý I/2025, nhưng phải đối mặt với mối lo đơn giá giảm trong bối cảnh chi phí tăng.
Ngành gỗ là một trong những ngành ghi nhận tín hiệu phục hồi xuất khẩu tích cực. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT), 7 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu gỗ và lâm sản ước đạt 9,36 tỉ USD, bằng 61,5% kế hoạch năm, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Đơn hàng nhỏ, lợi nhuận thấp
Ông Phạm Ánh Dương, Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng và Sản xuất MDF Hải Dương, thông tin tính đến thời điểm này, đơn hàng của doanh nghiệp (DN) tăng khoảng 50% so với cùng kỳ. DN cũng đã nhận đơn hàng đến hết quý I/2025. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Liêm, Chủ tịch Hiệp hội Chế biến gỗ Bình Dương, do nhu cầu của thế giới vẫn thấp, người mua e ngại tồn kho nên đơn hàng của các DN trong toàn ngành bị chia nhỏ, thời gian giao gấp và đặc biệt là giá giảm.
Với ngành dệt may, đơn hàng bắt đầu phục hồi từ tháng 4-2024. Công ty TNHH Việt Thắng Jean (VitaJean) đã có đơn tới hết năm, tăng 20% -30% so với năm ngoái. Theo Chủ tịch HĐQT công ty, ông Phạm Văn Việt, căng thẳng chính trị thế giới khiến nhà mua hàng đổ về Việt Nam nhiều hơn song đơn hàng số lượng lớn lại giảm mạnh. "Trước đây, DN nhận đơn hàng lên tới 50.000 sản phẩm/mã, giờ chỉ còn 3.000 - 5.000 sản phẩm/mã. Đơn hàng nhỏ, chi phí tăng trong khi giá không đổi khiến lợi nhuận giảm" - ông Việt phản ánh.
Theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, ngành dệt may trong nước có lợi thế nhất định khi Bangladesh gặp khó khăn. Để biến cơ hội thành lợi thế, các DN dệt may cần chú trọng ứng dụng khoa học - công nghệ và phát triển nguồn nhân lực gắn với kiểm soát rủi ro, chuyển đổi xanh...
Xuất khẩu gỗ đang hồi phục tích cực khi nhiều doanh nghiệp có đơn hàng tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái. Ảnh: THÙY LINH
Ở góc nhìn khác, ông Phạm Xuân Hồng - Chủ tịch HĐQT Công ty CP May Sài Gòn 3, Chủ tịch Hội Dệt may Thêu đan TP HCM - cho rằng bất ổn chính trị tại Bangladesh có tác động nhất định đến ngành dệt may Việt Nam nhưng không nhiều. Bởi vì, dệt may Bangladesh tập trung ở phân khúc trung bình và thấp với giá rẻ trong khi Việt Nam đang ở phân khúc cao hơn. "Mặc dù đơn hàng tăng nhưng ngành dệt may chưa hết khó khăn khi khách hàng đưa ra đơn giá rất thấp, một số DN lại đang thiếu lao động" - ông Hồng nêu thực tế.
Đại diện Tập đoàn Dệt may Việt Nam dự báo từ nay tới cuối năm, nhu cầu tại các thị trường tiêu thụ chính chưa thể cải thiện. Chưa kể, kế hoạch cắt giảm lãi suất của các thị trường nhập khẩu lớn hiện chưa rõ ràng, còn quốc gia xuất khẩu cạnh tranh thì dự kiến phá giá đồng tiền khoảng 15%-20% để giành lại thị phần, khiến Việt Nam gặp áp lực về đơn giá trong bối cảnh giá xuất khẩu 2 năm qua vốn đã thấp. Bên cạnh đó còn hàng loạt áp lực khác tiếp tục gia tăng như cước vận tải biển, tiền lương, tiền điện, lãi suất ngân hàng... Trước tình hình này, các DN nên tập trung sản xuất mặt hàng kỹ thuật khó, đơn hàng nhỏ nhưng giá trị gia tăng cao, thay vì tập trung vào mặt hàng phổ thông giá rẻ.
Tăng cường hỗ trợ tín dụng
Bà Đỗ Thị Thúy Hương, Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội DN Điện tử Việt Nam, cho rằng giải pháp hiện nay cho DN là tiếp cận đơn hàng "vừa miếng".
Hiện nay, có nhiều đơn hàng không yêu cầu cao về mặt công nghệ, chẳng hạn đơn hàng số lượng lớn tủ lạnh nhỏ đưa vào khách sạn ở Thụy Điển, Na Uy. "Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng của DN để nhận những đơn hàng này là rất thấp. Dường như DN vẫn "mơ" những đơn hàng "xa quá", "cao quá" rồi bỏ lỡ cơ hội cận kề" - bà Hương nói.
Bà Hương cũng chỉ ra thực tế nhiều DN lựa chọn việc gia công cho thương hiệu lớn, chưa tự chủ trong chuỗi cung ứng và khâu thiết kế. "Chỉ khi DN tự thiết kế, làm chủ công nghệ, phát triển nhiều sản phẩm mang thương hiệu thì mới thu về lợi nhuận cao" - bà Hương lưu ý.
Ông Nguyễn Liêm nhận định thị trường quyết định sự tồn tại của nhà máy; sản phẩm quyết định năng suất, giá trị của DN. Vì vậy, DN cần đẩy mạnh phát triển thị trường và nâng cao năng lực quản trị, từ đó phát huy hết công suất, tiềm năng của nhà máy.
Trong khi đó, Chủ tịch HĐQT VitaJean Phạm Văn Việt kiến nghị nhà nước hỗ trợ DN tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị. "Công nghệ chỉ cần tụt hậu 2 năm là không thể theo kịp thế giới. Nếu biết ứng dụng công nghệ, ngồi ở Việt Nam có thể bán hàng online sang châu Âu" - ông Việt chia sẻ.
Về phía cơ quan quản lý, Bộ Công Thương cho rằng cần chính sách điều hành tỉ giá và lãi suất linh hoạt, hiệu quả. Cụ thể, việc điều chỉnh tỉ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp trong bối cảnh lãi suất thấp ở châu Âu và Nhật Bản cùng với việc theo sát động thái của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) là rất cần thiết để bảo đảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Trước tình hình đơn hàng tăng, xuất khẩu có tín hiệu phục hồi, Bộ Công Thương kiến nghị Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ tài chính, ưu đãi tín dụng cho các DN, qua đó giúp DN hoàn thành các hợp đồng đã ký kết, mở rộng xuất khẩu, nhất là với các ngành dệt may, da giày, nông, lâm, thủy sản...
Đa dạng hóa thị trường
Ông Đỗ Ngọc Hưng - Tham tán thương mại, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Mỹ - cho rằng trong bối cảnh Mỹ vẫn coi Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường, các DN cần chuẩn bị rất kỹ lưỡng khi xuất khẩu sang thị trường này. Đồng thời, luôn trong tâm thế có thể bị khởi kiện phòng vệ thương mại bởi ngành sản xuất nội địa Mỹ bất cứ lúc nào.
Cũng theo Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do với các đối tác thương mại lớn. DN có thể tận dụng cơ hội này để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và nhập khẩu nguyên vật liệu, tránh vướng các quy định liên quan thương mại của Mỹ nói riêng và các nước thành viên Tổ chức Thương mại thế giới nói chung.
T.Linh
THÙY LINH - THANH NHÂN
Người lao động





Nhóm doanh nghiệp ngành gỗ tiếp đà phục hồi về cả doanh thu và lợi nhuận trong quý 2, nhưng theo dự báo những tháng cuối năm 2024, vẫn tiềm ẩn một số khó khăn cho ngành.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xuất khẩu gỗ và lâm sản trong 7 tháng đầu năm 2024 ước đạt 9.36 tỷ USD, tăng 20.5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 8.78 tỷ USD, tăng gần 22% so với cùng kỳ.
Tại hầu hết các thị trường chính, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đều tăng. Trong đó, Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất với giá trị hơn 5 tỷ USD, tăng 24.5% so với cùng kỳ. Tiếp đó, Trung Quốc đạt 1.22 tỷ USD, tăng gần 38%.
Bức tranh xuất khẩu tích cực đã phản ánh vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Dữ liệu từ VietstockFinance cho thấy, trong 15 doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trên sàn công bố BCTC quý 2/2024, có 12 doanh nghiệp tăng lãi, 2 doanh nghiệp giảm lãi và 1 doanh nghiệp có lãi trở lại.
Tổng doanh thu các doanh nghiệp đạt hơn 5 ngàn tỷ đồng và lãi ròng gần 477 tỷ đồng, lần lượt tăng 12% và 64% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, biên lãi gộp cải thiện từ mức 19% cùng kỳ lên hơn 20%.
Thêm nhiều gam màu sáng
Savimex (SAV) đứng đầu về tốc độ tăng trưởng lợi nhuận quý 2 xấp xỉ 10 lần cùng kỳ, đạt gần 33 tỷ đồng. Công ty cho biết, doanh thu bán nội thất gỗ tăng 20% lên hơn 247 tỷ đồng, chiếm gần 98% tổng doanh thu. Điểm nhấn còn là khoản hoàn nhập hơn 32 tỷ đồng dự phòng giảm giá chứng khoán tại TCM.
Đầu tư Xây dựng và Phát triển Đô thị Thăng Long (TLD), Navifico (NAV), Vinafor (VIF) cũng là những dấu ấn tích cực của ngành với tăng trưởng lợi nhuận gấp 3-4 lần cùng kỳ, đạt lần lượt hơn 6 tỷ đồng, 9 tỷ đồng và 103 tỷ đồng.
Trong đó, TLD và Vinafor cùng chung lý do đẩy mạnh hoạt động sản xuất, tăng sản lượng bán hàng trong bối cảnh thị trường hồi phục dẫn đến tăng doanh thu và lợi nhuận. Riêng Navifico được hưởng lợi khoản cổ tức từ công ty liên kết - CTCP Phát triển Sài Gòn.
Quý 2, Gỗ Đức Thành (GDT) có biên lãi gộp tới hơn 40%, tăng 11.5 điểm phần trăm so với cùng kỳ và lớn hơn biên lãi gộp cả năm 2023 mức 29%. Điều này giúp lãi ròng đạt gần 15.5 tỷ đồng, mức cao nhất 2 năm qua và tăng 96% so với cùng kỳ.
Kết quả khả quan cũng được hỗ trợ từ việc dồn 2 nhà máy lại thành 1 nên ngoài việc tiết giảm các chi phí quản lý, nhân sự, vận chuyển... GDT còn có thêm lợi nhuận từ việc cho thuê nhà xưởng đã dời đi.
Gỗ Trường Thành (TTF) cải thiện hoạt động cốt lõi với biên lãi gộp ở mức 14.5%, tăng 9 điểm phần trăm so với cùng kỳ 2023. Cùng với doanh thu tài chính được gia tăng từ chênh lệch tỷ giá khiến lãi ròng đạt hơn 360 triệu đồng, trong khi cùng kỳ lỗ tới gần 39 tỷ đồng.
Quán quân lợi nhuận trong quý 2/2024 thuộc về Gỗ An Cường (ACG), đạt hơn 118 tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ và chiếm gần 25% lợi nhuận cả nhóm. Công ty cho biết, đã đẩy mạnh các dòng hàng có biên lợi nhuận tốt, đồng thời thực hiện tăng năng suất và tiết giảm chi phí giữa lúc thị trường xuất khẩu tiếp tục khởi sắc.
Thành quả của Phú Tài (PTB) là mức lãi cao nhất 7 quý, đạt gần 111 tỷ đồng, cao hơn 4% so với cùng kỳ. Công ty cũng đứng đầu về doanh thu quý 2 với hơn 1.6 ngàn tỷ đồng, tăng 6% và chiếm hơn 32% doanh thu cả nhóm, trong đó doanh thu bán các sản phẩm gỗ đạt 890 tỷ đồng.
Riêng Gỗ Thuận An (GTA) và Sơn Hà Sài Gòn (SHA) là những doanh nghiệp hiếm hoi trong ngành giảm lãi khi đạt hơn 2 tỷ đồng và 4 tỷ đồng, giảm 21% và 3% so với quý 2/2023.
Sáng cửa về đích lợi nhuận năm
Theo thống kê, trong 6 tháng đầu năm, lãi trước và sau thuế của 15 doanh nghiệp ngành gỗ lần lượt đạt hơn 934 tỷ đồng và 789.5 tỷ đồng. Trong đó, có 5 doanh nghiệp ngành gỗ đã đạt trên 50% mục tiêu lợi nhuận cả năm, tức hoàn thành kế hoạch 6 tháng.
Thậm chí, có 2 doanh nghiệp vượt kế hoạch năm chỉ sau 6 tháng là Savimex và Vinafor. Cụ thể, Savimex "về đích" sớm khi lãi trước thuế 6 tháng đạt hơn 48 tỷ đồng, mức lãi bán niên cao nhất trong lịch sử hoạt động và vượt 38% kế hoạch năm. Còn lãi trước thuế của Vinafor 6 tháng đầu năm đạt 224 tỷ đồng, tăng gấp rưỡi cùng kỳ và vượt 11% kế hoạch cả năm.
Hay như Xuân Hòa (XHC) gần như "chạm đích" sau 6 tháng với lãi sau thuế đạt 51 tỷ đồng, mức cao nhất 5 năm qua, và thực hiện được 99% mục tiêu lợi nhuận năm.
Ngược lại, TLD và TTF là hai doanh nghiệp trong ngành chưa đi được 1/4 chặng đường về đích. Thê thảm hơn, Nam Hoa (NHT) và Gỗ MDF VRG - Quảng Trị (MDF) thậm chí kinh doanh không có lãi trong 6 tháng khi lỗ ròng lần lượt gần 5 tỷ đồng và 7 tỷ đồng.
Sau 6 tháng, chưa có doanh nghiệp ngành gỗ nào hoàn thành kế hoạch doanh thu năm 2024. Trong đó, có 5/15 doanh nghiệp "chạy" được hơn nửa chặng đường gồm Vinafor, Savimex, Navifico, TLD và SHA. Theo sau là PTB, ACG, GDT, BKD và GTA thực hiện được từ 42-49% kế hoạch doanh thu năm.
Còn đó những thách thức, rào cản
Tại Hội nghị giao ban ngành chế biến gỗ xuất khẩu gỗ và lâm sản quý 2/2024 tổ chức ngày 9/8 tại Bình Dương, ông Đỗ Xuân Lập - Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) nhận định, những tháng cuối năm 2024, ngành gỗ vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức như tác động của sự cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn diễn biến phức tạp, khó lường;
Bên cạnh đó, tình trạng gian lận thương mại, giả xuất xứ sản phẩm hàng hóa có chiều hướng gia tăng; cạnh tranh thương mại diễn ra phức tạp; giá cước vận tải biển tăng cao, việc hoàn thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp vẫn còn chậm.
Để đạt được mục tiêu xuất khẩu 15.2 tỷ USD năm 2024 sẽ còn gặp khó khăn, nếu không có quyết tâm cố gắng, nỗ lực khắc phục. Trên cơ sở đánh giá kết quả thuận lợi của 7 tháng đầu năm, Hội nghị đã chỉ ra 3 nhiệm vụ trọng tâm cho ngành chế biến gỗ và lâm sản, gồm:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện và triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách đã ban hành, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào việc phát triển rừng trồng, chế biến gỗ và lâm sản.
Thứ hai, làm tốt công tác tuyên truyền, tổ chức các hội chợ triển lãm, xúc tiến đầu tư để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm gỗ và lâm sản.
Thứ ba, tổ chức theo dõi chặt chẽ, nắm bắt kịp thời những khó khăn, bất cập do cơ chế, chính sách để tháo gỡ cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ và lâm sản.
Thế Mạnh
FILI
CTCP Gỗ MDF VRG - Quảng Trị (UPCoM: MDF) lãi ròng quý 2/2024 đạt hơn 6 tỷ đồng, mức lợi nhuận quý cao nhất trong 2 năm trở lại đây, nhưng kết quả này không đến từ hoạt động cốt lõi.
Theo BCTC quý 2/2024, MDF ghi nhận doanh thu hơn 239 tỷ đồng, tăng 40% so với cùng kỳ, chủ yếu do sản lượng tiêu thụ tăng. Do mức tăng giá vốn hàng bán cao hơn doanh thu, lãi gộp chỉ đạt 28 tỷ đồng, giảm 4%; biên lãi gộp thụ hẹp xuống 12%, từ mức 17% cùng kỳ.
Điểm sáng từ doanh thu tài chính đạt 1.5 tỷ đồng, tăng mạnh 163% và phát sinh khoản lợi nhuận khác gần 5 tỷ đồng.
Điều này giúp mức tăng tổng doanh thu cao hơn tổng chi phí, lãi ròng quý 2 của MDF đạt hơn 6 tỷ đồng, gấp 2.5 lần cùng kỳ và cải thiện mạnh so với số lỗ 11 tỷ đồng quý 1 trước đó. Đây cũng là quý có lợi nhuận cao nhất của Doanh nghiệp trong 2 năm qua, kể từ quý 2/2022.
Công ty cho biết nếu xét về hiệu quả sản xuất kinh doanh chính từ gỗ thấp hơn 44% so với cùng kỳ do hiệu quả dòng hàng sản xuất và tiêu thụ thấp cấp hơn.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu thuần của MDF đạt gần 455 tỷ đồng, tăng 36%, nhưng lỗ ròng gần 7 tỷ đồng, giảm so với mức lỗ hơn 18 tỷ đồng cùng kỳ năm 2023, qua đó nâng lỗ lũy kế tại ngày 30/06/2024 lên gần 29 tỷ đồng.
Năm 2024, MDF đặt mục tiêu tổng doanh thu tối thiểu 1,312 tỷ đồng và lãi sau thuế 33.5 tỷ đồng. Công ty đang “vỡ” kế hoạch lợi nhuận năm.
Tại cuối quý 2/2024, tổng tài sản MDF gần 1,113 tỷ đồng, giảm 9% so với đầu năm. Biến động do hàng tồn kho giảm 27% về gần 198 tỷ đồng; ngược lại tiền mặt, tiền gửi ngân hàng tăng 62% lên trên 26 tỷ đồng.
Bên kia bảng cân đối, nợ phải trả giảm 18% so với đầu năm xuống gần 478 tỷ đồng. Vay ngắn hạn chiếm gần 85% tỷ trọng, với hơn 406 tỷ đồng, gồm 2 khoản vay tại Vietinbank (137 tỷ đồng) và Vietcombank (269 tỷ đồng).
Trên thị trường, giá cổ phiếu MDF đã giảm hơn 15% trong 2 tháng trở lại đây đi kèm thanh khoản bình quân chưa đầy 850 cp/ngày. Thị giá MDF đóng cửa phiên 13/07 tại mức tham chiếu 8,100 đồng/cp.
Diễn biến giá cổ phiếu MDF từ đầu năm 2024
Thế Mạnh
FILI
Vì đâu MDF có quý lãi cao nhất 2 năm qua?
CTCP Gỗ MDF VRG - Quảng Trị (UPCoM: MDF) lãi ròng quý 2/2024 đạt hơn 6 tỷ đồng, mức lợi nhuận quý cao nhất trong 2 năm trở lại đây, nhưng kết quả này không đến từ hoạt động cốt lõi.
Nhà máy đầu tiên xuất khẩu sản phẩm ván MDF. Ảnh: MDF
Theo BCTC quý 2/2024, MDF ghi nhận doanh thu hơn 239 tỷ đồng, tăng 40% so với cùng kỳ, chủ yếu do sản lượng tiêu thụ tăng. Do mức tăng giá vốn hàng bán cao hơn doanh thu, lãi gộp chỉ đạt 28 tỷ đồng, giảm 4%; biên lãi gộp thụ hẹp xuống 12%, từ mức 17% cùng kỳ.
Điểm sáng từ doanh thu tài chính đạt 1.5 tỷ đồng, tăng mạnh 163% và phát sinh khoản lợi nhuận khác gần 5 tỷ đồng.
Điều này giúp mức tăng tổng doanh thu cao hơn tổng chi phí, lãi ròng quý 2 của MDF đạt hơn 6 tỷ đồng, gấp 2.5 lần cùng kỳ và cải thiện mạnh so với số lỗ 11 tỷ đồng quý 1 trước đó. Đây cũng là quý có lợi nhuận cao nhất của Doanh nghiệp trong 2 năm qua, kể từ quý 2/2022.
Công ty cho biết nếu xét về hiệu quả sản xuất kinh doanh chính từ gỗ thấp hơn 44% so với cùng kỳ do hiệu quả dòng hàng sản xuất và tiêu thụ thấp cấp hơn.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu thuần của MDF đạt gần 455 tỷ đồng, tăng 36%, nhưng lỗ ròng gần 7 tỷ đồng, giảm so với mức lỗ hơn 18 tỷ đồng cùng kỳ năm 2023, qua đó nâng lỗ lũy kế tại ngày 30/06/2024 lên gần 29 tỷ đồng.
Năm 2024, MDF đặt mục tiêu tổng doanh thu tối thiểu 1,312 tỷ đồng và lãi sau thuế 33.5 tỷ đồng. Công ty đang “vỡ” kế hoạch lợi nhuận năm.
Tại cuối quý 2/2024, tổng tài sản MDF gần 1,113 tỷ đồng, giảm 9% so với đầu năm. Biến động do hàng tồn kho giảm 27% về gần 198 tỷ đồng; ngược lại tiền mặt, tiền gửi ngân hàng tăng 62% lên trên 26 tỷ đồng.
Bên kia bảng cân đối, nợ phải trả giảm 18% so với đầu năm xuống gần 478 tỷ đồng. Vay ngắn hạn chiếm gần 85% tỷ trọng, với hơn 406 tỷ đồng, gồm 2 khoản vay tại Vietinbank (137 tỷ đồng) và Vietcombank (269 tỷ đồng).
Trên thị trường, giá cổ phiếu MDF đã giảm hơn 15% trong 2 tháng trở lại đây đi kèm thanh khoản bình quân chưa đầy 850 cp/ngày. Thị giá MDF đóng cửa phiên 13/07 tại mức tham chiếu 8,100 đồng/cp.
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。