行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值












VIP跟單
所有跟單
所有比賽



法國貿易帳 (季調後) (10月)公:--
預: --
歐元區就業人數年增率 (季調後) (第三季度)公:--
預: --
加拿大兼職就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大失業率 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大全職就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大就業參與率 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
美國PCE物價指數月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國個人收入月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國核心PCE物價指數月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國PCE物價指數年增率 (季調後) (9月)公:--
預: --
前: --
美國核心PCE物價指數年增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國個人支出月增率 (季調後) (9月)公:--
預: --
美國五至十年期通膨率預期 (12月)公:--
預: --
前: --
美國實際個人消費支出月增率 (9月)公:--
預: --
美國當週鑽井總數公:--
預: --
前: --
美國當周石油鑽井總數公:--
預: --
前: --
美國消費信貸 (季調後) (10月)公:--
預: --
中國大陸外匯存底 (11月)公:--
預: --
前: --
日本貿易帳 (10月)公:--
預: --
前: --
日本名義GDP季增率修正值 (第三季度)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額年增率 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸出口額 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸貿易帳 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸出口額年增率 (美元) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額年增率 (美元) (11月)公:--
預: --
前: --
德國工業產出月增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
歐元區Sentix投資者信心指數 (12月)公:--
預: --
前: --
加拿大全國經濟信心指數公:--
預: --
前: --
英國BRC同店零售銷售年增率 (11月)--
預: --
前: --
英國BRC總體零售銷售年增率 (11月)--
預: --
前: --
澳洲隔夜拆借利率--
預: --
前: --
澳洲央行利率決議
澳洲聯儲主席布洛克召開貨幣政策記者會
德國出口月率 (季調後) (10月)--
預: --
前: --
美國NFIB小型企業信心指數 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
墨西哥12個月通膨年增率 (CPI) (11月)--
預: --
前: --
墨西哥核心消費者物價指數 (CPI) 年增率 (11月)--
預: --
前: --
墨西哥PPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
美國當周紅皮書同店零售銷售指數年增率--
預: --
前: --
美國JOLTS職位空缺 (季調後) (10月)--
預: --
前: --
中國大陸M1貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸M0貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸M2貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
美國EIA當年短期前景原油產量預期 (12月)--
預: --
前: --
美國EIA次年天然氣產量預期 (12月)--
預: --
前: --
美國EIA次年短期原油產量預期 (12月)--
預: --
前: --
EIA月度短期能源展望報告
美國當週API汽油庫存--
預: --
前: --
美國當週API庫欣原油庫存--
預: --
前: --
美國當週API原油庫存--
預: --
前: --
美國當週API精煉油庫存--
預: --
前: --
韓國失業率 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
日本路透短觀非製造業景氣判斷指數 (12月)--
預: --
前: --
日本路透短觀製造業景氣判斷指數 (12月)--
預: --
前: --
日本國內企業商品價格指數月增率 (11月)--
預: --
前: --
日本國內企業商品價格指數年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸PPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸CPI月增率 (11月)--
預: --
前: --
意大利工業產出年增率 (季調後) (10月)--
預: --
前: --


無匹配數據

VietinBank là ngân hàng mạnh tay nhất hệ thống trong việc đóng cửa các phòng giao dịch, với tổng cộng 72 phòng giao dịch trong 9 tháng năm 2025.
Các ngân hàng Big4 chiếm gần một nửa
Theo báo cáo tài chính riêng lẻ quý III/2025 và công bố của các ngân hàng, số lượng điểm giao dịch ngân hàng (bao gồm các chi nhánh/phòng giao dịch) trong 9 tháng năm 2025 của 5 ngân hàng thương mại ghi nhận giảm, bao gồm: VietinBank (giảm 72 phòng giao dịch), VCBNeo (giảm 26), SCB (giảm 19), Sacombank (giảm 11) và GPBank (giảm 5).
Ngược lại, 6 ngân hàng ghi nhận tăng về số lượng điểm giao dịch ngân hàng, dẫn đầu là MB với 18 điểm giao dịch, VIB (tăng 14), HDBank (tăng 7), VietABank (tăng 2), ACB và Techcombank cùng tăng thêm 1 điểm giao dịch so với thời điểm 31/12/2024.
Nhóm ngân hàng Big4 dẫn đầu về số lượng chi nhánh/phòng giao dịch trên cả nước. Tính đến 30/9, Agribank, BIDV, VietinBank và Vietcombank đang duy trì hơn 5.000 chi nhánh/phòng giao dịch, tương đương 48% tổng số điểm giao dịch của toàn ngành. Con số này chưa bao gồm hội sở và văn phòng đại diện.
Cụ thể, số lượng chi nhánh/phòng giao dịch của Vietcombank đến 30/9 là 640; trong đó, số lượng chi nhánh là 130, giảm 1 chi nhánh so với cuối năm ngoái.
Bản đồ phân bố cho thấy Vietcombank hiện diện nhiều nhất tại TPHCM (154 phòng giao dịch) và Hà Nội (94 phòng giao dịch). Đây là ngân hàng có số lượng chi nhánh/phòng giao dịch thấp nhất trong số 4 ngân hàng thương mại nhà nước.
Trong khi đó, tổng số lượng chi nhánh/phòng giao dịch của VietinBank đến 30/9 là 1.038, bao gồm 157 chi nhánh và 881 phòng giao dịch.
So với 31/12/2024, số lượng chi nhánh vẫn giữ nguyên nhưng VietinBank đã đóng cửa tới 72 phòng giao dịch trong 3 quý đầu năm, trở thành nhà băng mạnh tay nhất toàn ngành trong việc dừng hoạt động các điểm giao dịch.
Tại BIDV, tổng số lượng chi nhánh/phòng giao dịch trên cả nước đến 30/9 là 1.117 (bao gồm 187 chi nhánh, 930 phòng giao dịch). Dù tổng không thay đổi so với cuối năm ngoái, nhưng thực tế BIDV đã dừng hoạt động 2 chi nhánh, đồng thời tăng thêm 2 phòng giao dịch trong 3 quý đầu năm.
Trong nhóm Big4, Agribank dẫn đầu về mạng lưới hoạt động trên cả nước, đúng với đặc thù của một ngân hàng có thế mạnh cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Tuy chưa công bố báo cáo tài chính quý III, nhưng theo số liệu cập nhật tại báo cáo tài chính ngân hàng mẹ quý II, Agribank có tới 2.222 điểm giao dịch trong nước, bao gồm 938 chi nhánh (cấp I và cấp II) và 1.284 phòng giao dịch.
Khối tư nhân: LPBank gần gấp đôi VPBank, Techcombank
Nhìn về các ngân hàng thương mại tư nhân, LPBank là ngân hàng có số điểm giao dịch lớn nhất với 566 chi nhánh/phòng giao dịch trên cả nước.
Khá bất ngờ là dù cắt giảm gần 1.800 nhân sự trong 3 quý đầu năm nhưng số lượng các điểm giao dịch của LPBank vẫn không thay đổi.
Chưa kể, mạng lưới giao dịch của ngân hàng do ông Nguyễn Đức Thụy làm Chủ tịch còn có 512 Phòng giao dịch Bưu điện, đặt tại các điểm bưu điện trên toàn quốc. Mạng lưới này góp phần hỗ trợ LPBank thực hiện tham vọng trở thành ngân hàng bán lẻ số 1 tại khu vực nông thôn và đô thị loại 2 giai đoạn 2025-2028.
Dù giảm 11 PGD trong 9 tháng đầu năm, Sacombank vẫn đứng thứ hai sau LPBank về số lượng điểm giao dịch, 535 chi nhánh/phòng giao dịch.
Tiếp đến là ACB (389), HDBank (375), MB (328), Techcombank (300), VPBank (287), MSB (260), Eximbank (215), Vikki Bank (212), VIB (202)...
Các ngân hàng còn lại có số lượng chi nhánh/phòng giao dịch dưới 200. Thậm chí, VietABank, PGBank, Saigonbank, GPBank, NCB, VCBNeo, Bac A Bank, SCB, BaoViet Bank hiện duy trì chi nhánh/phòng giao dịch ở con số dưới 100.
Với Ngân hàng SCB và 4 ngân hàng chuyển giao bắt buộc, Vikki Bank đang duy trì 212 phòng giao dịch và MBV là 101 phòng giao dịch, không thay đổi số lượng điểm giao dịch so với cuối năm ngoái.
Trong khi đó, số lượng điểm giao dịch của VCBNeo giảm mạnh 26 điểm, còn 66 điểm; GPBank giảm nhẹ từ 85 xuống còn 80 phòng giao dịch.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) cũng giảm tới 19 điểm giao dịch, sau khi đã giảm tới hơn 100 điểm giao dịch trong 2 năm trước đó.
Đến thời điểm hiện tại, SCB chỉ còn duy trì 49 phòng giao dịch, giảm 76% so với 207 phòng giao dịch trước thời điểm xảy ra đại án Vạn Thịnh Phát.
| SỐ LƯỢNG CN/PGD TRONG NƯỚC CỦA CÁC NGÂN HÀNG ĐẾN 30/9/2025 | ||||
| STT | NGÂN HÀNG | 31/12/2024 | 30/9/2025 | TĂNG/GIẢM SO VỚI 31/12/2024 |
| 1 | AGRIBANK (đến 30/6) | 2222 | 2222 | 0 |
| 2 | BIDV | 1117 | 1117 | 0 |
| 3 | VIETINBANK | 1110 | 1038 | -72 |
| 4 | VIETCOMBANK | 640 | ||
| 5 | LPBANK | 566 | 566 | 0 |
| 6 | SACOMBANK | 546 | 535 | -11 |
| 7 | ACB | 388 | 389 | 1 |
| 8 | HDBANK | 368 | 375 | 7 |
| 9 | MB | 310 | 328 | 18 |
| 10 | TECHCOMBANK | 299 | 300 | 1 |
| 11 | VPBANK | 287 | 287 | 0 |
| 12 | MSB | 260 | 260 | 0 |
| 13 | EXIMBANK | 215 | 215 | 0 |
| 14 | VIKKI BANK | 212 | 212 | 0 |
| 15 | VIB | 188 | 202 | 14 |
| 16 | OCB | 175 | 175 | 0 |
| 17 | ABBANK | 165 | 165 | 0 |
| 18 | NAM A BANK | 147 | 147 | 0 |
| 19 | TPBANK | 140 | 140 | 0 |
| 20 | KIENLONG BANK | 134 | 134 | 0 |
| 21 | VIETBANK | 132 | 132 | 0 |
| 22 | BVBANK | 125 | 125 | 0 |
| 23 | PVCOMBANK | 108 | 108 | 0 |
| 24 | MBV | 101 | 101 | 0 |
| 25 | VIET A BANK | 97 | 99 | 2 |
| 26 | PGBANK | 91 | 91 | 0 |
| 27 | SAIGONBANK | 88 | 88 | 0 |
| 28 | GPBANK | 85 | 80 | -5 |
| 29 | NCB | 66 | 66 | 0 |
| 30 | VCBNEO | 92 | 66 | -26 |
| 31 | BAC A BANK | 59 | 59 | 0 |
| 32 | SCB | 68 | 49 | -19 |
Tuân Nguyễn
VietNamNet
Rộn ràng mùa giảm giá “sập sàn” cuối năm - Black Friday, Ngân hàng TMCP Phương Đông mang đến loạt ưu đãi hấp dẫn dành cho chủ thẻ tín dụng, từ giảm giá điện máy, ăn uống, mua sắm online đến du lịch…
Theo đó, khi thanh toán bằng các dòng thẻ tín dụng quốc tế, chủ thẻ sẽ được giảm giá trực tiếp tại các hệ thống điện máy như: Nguyễn Kim, Điện máy Chợ Lớn, CellphoneS, Di động Việt và FPT Shop từ 500,000 đồng cho hóa đơn từ 10 triệu đồng và giảm đến 01 triệu đồng khi mua các sản phẩm thuộc dòng iPhone 17 series – ưu đãi đặc biệt phù hợp cho mùa nâng cấp thiết bị công nghệ cuối năm.
Song song đó, những khách hàng yêu thích ẩm thực sẽ “thảnh thơi” tận hưởng ưu đãi giảm 300,000 đồng cho hóa đơn từ 1.2 triệu đồng trong chuỗi Golden Gate, cùng ưu đãi giảm 20,000 đồng cho các hóa đơn đồ uống từ 49,000 đồng tại The Coffee House. Riêng tín đồ đam mê điện ảnh, chương trình mua hai vé xem phim 2D với giá chỉ 99,000 đồng vào thứ 6, thứ 7 và chủ nhật tại CGV và Lotte Cinema tiếp tục là điểm nhấn thu hút trong mùa sale.
Ngoài ra, nhu cầu du lịch, giải trí dịp cuối năm cũng được OCB tập trung đẩy mạnh thông qua ưu đãi giảm đến 400.000 đồng tại Traveloka và 250,000 đồng tại iVIVU. Trong khi đó, các nhu cầu thiết thực hằng ngày bao gồm đặt xe hay đặt đồ ăn với ưu đãi giảm đến 25,000 đồng tại Grab, Be, ShopeeFood và XanhSM.
Khi thanh toán bằng thẻ tín dụng quốc tế OCB trên Shopee, Tiki hoặc Lazada, người dùng còn được giảm 59,000 đồng cho các đơn hàng từ 500,000 đồng mỗi ngày; Riêng thứ Bảy, Chủ nhật và Ngày đôi, khách hàng sẽ được giảm đến 200,000 đồng cho hóa đơn từ 2 triệu đồng. Đây được xem là những ưu đãi thiết thực nhất cho mùa sale năm nay.
Đặc biệt, không chỉ đi kèm các ưu đãi theo từng dòng thẻ, chủ thẻ OCB còn được hưởng lợi thế “nhân đôi ưu đãi” trong mùa Black Friday. Bên cạnh những mức giảm giá rất hấp dẫn từ thương hiệu, chủ thẻ còn nhận thêm ưu đãi trả góp 0% tại hơn 300 đối tác cùng các ưu đãi mở mới thẻ như: tặng vali, hoàn tiền lên đến 1.1 triệu đồng và hoàn phí thường niên năm đầu khi đạt chi tiêu giao dịch. Mọi thủ tục mở thẻ đều được thực hiện nhanh chóng trên ứng dụng OCB OMNI, giúp khách hàng dễ dàng sở hữu thẻ chỉ trong vài phút.
Thực tế, những tháng cuối năm luôn là thời điểm vàng để săn deal, Black Friday - lễ hội mua sắm lớn nhất cũng đang đến rất gần. Từ thời trang, công nghệ đến làm đẹp và giải trí… ở thời điểm này, hàng loạt thương hiệu đã bắt đầu tung ra những chương trình giảm giá cực sâu. Vì vậy, việc sở hữu một giải pháp tài chính tiện lợi, linh hoạt và giúp người dùng gia tăng lợi ích vào mỗi mùa sale là điều vô cùng cần thiết. Với hệ sinh thái thẻ đa dạng, mỗi loại thẻ được thiết kế riêng theo từng nhu cầu khác nhau, cùng hạn mức tốt, xét duyệt nhanh và ưu đãi hoàn tiền hấp dẫn, thẻ OCB giúp người dùng tự tin mua sắm, tận hưởng cuộc sống một cách trọn vẹn.
Minh Tài
FILI - 15:43:14 28/11/2025
Theo đánh giá mới nhất của Moody’s Ratings (Moody’s) vừa công bố, Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam được nâng xếp hạng tiền gửi dài hạn và xếp hạng nhà phát hành dài hạn từ B1 lên Ba3, đồng thời nâng xếp hạng tín nhiệm cơ sở (Baseline Credit Assessment – BCA) từ b2 lên b1.
Triển vọng ngân hàng tiếp tục được giữ ở mức Ổn định, phản ánh kỳ vọng các nền tảng tín dụng của MSB sẽ duy trì ổn định trong 12 – 18 tháng tới.
Theo báo cáo cập nhật của Moody’s, với phương pháp luận mới, tổ chức xếp hạng tín nhiệm có một số luận điểm hỗ trợ tích cực cho điểm xếp hạng của MSB ví dụ như: Moody’s đánh giá năng lực trả nợ trong dài hạn (solvency) nhờ tiềm năng tạo lợi nhuận ổn định của ngân hàng quan trọng hơn so với quy mô thanh khoản như trong phương pháp luận cũ; quy mô vốn, bộ đệm vốn được củng cố sẽ hỗ trợ tốt trong phòng ngừa các rủi ro của tổ chức tín dụng; mô hình kinh doanh tập trung hay đa dạng hóa nguồn thu được xem xét trong chấm điểm/tính toán rủi ro; và một số tiêu chí định tính được đưa vào mô hình chấm điểm xếp hạng trong phương pháp luận mới này…
Theo đó, chỉ số về nguồn vốn (Capital score) của MSB được cải thiện nhờ ngân hàng thực hiện chi trả cổ tức bằng cổ phiếu những năm gần đây, giúp củng cố cho bộ đệm vốn và giữ cho chỉ số vốn chủ sở hữu hữu hình trên tài sản có rủi ro (TCE/RWA) đạt mức 12.7% theo dữ liệu tài chính tại 30/6/2025 và thuộc nhóm cao trong ngành. Chất lượng của các tài sản có tính thanh khoản cao (trái phiếu Chính phủ mà ngân hàng đầu tư) là nhân tố hỗ trợ tích cực cho điểm xếp hạng MSB về tiêu chí thanh khoản. Ngoài ra, các yếu tố về Môi trường – Xã hội – Quản trị (ESG considerations) của MSB ở mức CIS-3, cho thấy cho thấy các rủi ro liên quan ESG không ghi nhận tác động lớn đến xếp hạng tín nhiệm của ngân hàng hiện tại.
Trong bối cảnh yêu cầu đánh giá khách quan trở nên khắt khe hơn, việc MSB được cải thiện đồng thời nhiều hạng mục trong ma trận chấm điểm tín nhiệm cho thấy nền tảng tài chính của ngân hàng không chỉ đáp ứng tiêu chuẩn mới, mà còn nổi bật trên một số khía cạnh so với mặt bằng chung.
Trong một vài năm trở lại đây, MSB tập trung củng cố an toàn vốn và thanh khoản, đảm bảo ngân hàng duy trì trạng thái chủ động trước biến động kinh tế. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) luôn được duy trì trên 12%, cao hơn mức 8% theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và phù hợp với quy mô bảng cân đối. Bên cạnh đó, theo số liệu tại ngày 30/9, nợ xấu (NPL) riêng lẻ của MSB ở mức 1.9%; tỷ lệ cho vay trên huy động (LDR) giảm từ 73.91% (quý 2) xuống 71.31% (quý 3); tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (MTLT) được kiểm soát ở mức 27.03%, đều đáp ứng tốt tiêu chí từ cơ quan quản lý.
Về cấu trúc nguồn vốn, 9 tháng đầu năm, tiền gửi khách hàng đạt gần 183,400 tỷ đồng, tăng 19% so với cuối 2024. Trong đó, tiền gửi không kỳ hạn (CASA) đạt hơn 51,000 tỷ đồng, ghi nhận tăng quý thứ 4 liên tiếp và chiếm 27.83% tổng huy động, nằm trong top đầu ngành ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn tăng 16%, đạt gần 132,360 tỷ đồng. Phát hành giấy tờ có giá đạt gần 26,100 tỷ đồng, tăng 23% so với cuối năm 2024. Kết quả trên cho thấy, MSB đang phát triển một nền tảng tiền gửi đa dạng và đảm bảo tối ưu chi phí vốn trong giai đoạn cạnh tranh mạnh trên thị trường huy động.
Việc Moody's nâng các hạng mục xếp hạng tín nhiệm có ý nghĩa quan trọng đối với MSB khi ngân hàng đang đẩy mạnh việc đa dạng hóa nguồn vốn trung – dài hạn, đặc biệt từ thị trường vốn quốc tế. Mức xếp hạng cao hơn giúp MSB nâng uy tín với các đối tác, tiếp cận nguồn vốn với chi phí hợp lý hơn và mở rộng phạm vi hợp tác với các định chế tài chính toàn cầu. Đồng thời, kết quả này cũng củng cố niềm tin của khách hàng và nhà đầu tư đối với ngân hàng, tạo thêm động lực để MSB đẩy mạnh chiến lược tăng trưởng, hướng tới một mô hình hoạt động an toàn, hiệu quả hơn và phù hợp với các chuẩn mực quản trị quốc tế.
Đại diện MSB chia sẻ: “Kết quả đánh giá từ Moody's là sự ghi nhận khách quan cho những nỗ lực liên tục của MSB trong việc hoàn thiện năng lực tài chính. Chúng tôi xem đây là một bước tiến quan trọng, đồng thời là động lực để MSB tiếp tục nâng cao chất lượng vận hành và hiệu quả kinh doanh, nhằm đem đến sự an tâm và tin cậy cao nhất cho khách hàng và đối tác.”
Với nền tảng đã được củng cố, MSB tiếp tục hướng tới chiến lược tăng trưởng thận trọng, chú trọng hiệu quả và bền vững về chất lượng, đồng thời đảm bảo duy trì vị thế cạnh tranh trong nhóm ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam.
Đánh giá | Xếp hạng trước đây | Xếp hạng được cập nhật ngày 26/11/2025 |
Triển vọng | Ổn định | Ổn định |
Xếp hạng rủi ro đối tác (Counterparty Risk Rating) | Ba3 | Ba3 |
Tiền gửi ngân hàng (Bank Deposits) | B1 | Ba3 |
Đánh giá tín dụng cơ sở (Baseline Credit Assessment) | b2 | b1 |
Đánh giá tín dụng cơ sở điều chỉnh (Adjusted Baseline Credit Assessment) | b2 | b1 |
Đánh giá rủi ro đối tác (Counterparty Risk Assessment) | Ba3(cr) | Ba3(cr) |
Xếp hạng nhà phát hành (Issuer Rating) | B1 | Ba3 |
Dịch vụ
Minh Tài
FILI - 13:30:00 28/11/2025

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của hệ thống ngân hàng tiếp tục xu hướng phục hồi trong quý 3. Việc nợ xấu được kiểm soát tốt giúp các ngân hàng có thêm thời gian để bồi đắp bộ đệm sau giai đoạn sụt giảm mạnh lúc trước. Mỗi ngân hàng thực hiện các chính sách trích lập dự phòng khác nhau dựa trên định hướng chiến lược riêng, từ đó tạo nên sự phân hóa trong chính sách trích lập dự phòng giữa các nhóm.
Trong quý 3, các ngân hàng tiếp tục duy trì sự chủ động trong việc củng cố khả năng hấp thụ rủi ro. Song, chi phí dự phòng chỉ tăng ở mức thấp, cho thấy áp lực bổ sung dự phòng chưa lớn. Mặt khác, điều này cũng thể hiện những ưu tiên nguồn lực của ngân hàng vào các mục tiêu tăng trưởng khác, hơn là mở rộng trích lập dự phòng.
Báo cáo tài chính quý 3/2025 mang đến cái nhìn rõ nét hơn về tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của hệ thống ngân hàng, với những tín hiệu tích cực sau khi ngành bước qua giai đoạn khó khăn nhất liên quan đến chất lượng danh mục cho vay. Tốc độ hình thành nợ xấu đã giảm đáng kể, góp phần hạ nhiệt áp lực lên bộ đệm dự phòng. Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang được đẩy mạnh, các ngân hàng vẫn ưu tiên phân bổ nguồn lực cho mở rộng cho vay, chi phí dự phòng tiếp tục tăng theo chu kỳ, nhưng không xuất hiện dấu hiệu trích lập mạnh như các giai đoạn căng thẳng trước đó.
Bức tranh chung cũng cho thấy sự phân hóa ngày càng rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng. Nhóm quốc doanh tập trung gia cố lại bộ đệm, phản ánh chiến lược tăng bộ đệm phòng thủ sau giai đoạn nợ xấu tăng nhanh. Ngược lại, nhóm ngân hàng bán lẻ và nhóm quy mô nhỏ ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu cải thiện nhờ kiểm soát chặt hơn tốc độ phát sinh nợ xấu và duy trì đà trích lập vừa phải.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng bán buôn lại điều chỉnh giảm tỷ lệ bao phủ trong ngắn hạn do ảnh hưởng từ việc nợ xấu tăng nhanh hơn. Nhìn chung, các ngân hàng vẫn duy trì mức trích lập đều đặn, ưu tiên nâng cao hiệu quả quản trị và xử lý nợ để giảm gánh nặng dự phòng. Điều này phản ánh chiến lược chủ đạo trong quý 3: thay vì tăng mạnh trích lập, các ngân hàng hướng tới giữ bộ đệm ở mức cân bằng - đủ để bảo đảm an toàn hệ thống nhưng không làm ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận của năm.
Đánh giá nợ xấu và mức bao phủ nợ xấu của ngành ngân hàng
Trong quý 3/2025, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) toàn ngành đạt 83.93%, nhích lên so với mức 82.54% của cùng kỳ. Quan trọng hơn, so với hai quý đầu năm, tỷ lệ này đã cải thiện rõ rệt khi tăng từ mức 79.32% của quý 2.
Để lý giải biến động của tỷ lệ LLR, cần phân tích hai cấu phần chính: số dư dự phòng đã trích lập trong kỳ, và diễn biến quy mô nợ xấu. Về nợ xấu, tổng nợ xấu của các ngân hàng niêm yết tăng 8.1% so với cùng kỳ - một mức tăng đã chậm lại rõ rệt so với các năm 2022-2024. Ở chiều ngược lại, quy mô dự phòng nợ xấu đã đạt khoảng 230,000 tỷ đồng, tương ứng tăng 9.9% so với cùng kỳ và 11.3% so với đầu năm. Đây là mức tăng cao so với tốc độ trung bình 8% từ năm 2023 đến nay.
Để nâng bộ đệm dự phòng, riêng trong quý 3, ngành ngân hàng đã trích lập thêm hơn 35,500 tỷ đồng. Đáng chú ý, dự phòng chung tăng mạnh 14.85% so với cuối năm 2024 (tương đương 20.7% YoY), trong khi dự phòng cụ thể chỉ tăng khoảng 8.64% (tương đương 2.8% YoY).
Khác với giai đoạn 2021-2022 khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhưng phần tăng dự phòng chủ yếu đến từ bổ sung dự phòng cụ thể (phản ánh chất lượng tài sản xấu đi) đợt tăng dự phòng hiện tại mang tính phòng thủ và củng cố bộ đệm, hơn là phát sinh các vấn đề mới về chất lượng tín dụng. Điều này cho thấy các ngân hàng đang chủ động chuẩn bị cho chu kỳ tín dụng tăng nhanh và các rủi ro tiềm ẩn có thể xuất hiện trong giai đoạn cao điểm cuối năm.
Diễn biến tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành
Đối với bao phủ nợ xấu, khối ngân hàng quốc doanh là nhóm có tỷ lệ LLR cao nhất hệ thống. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu trong quý 3 đạt 139.1%, thấp hơn đáng kể so với 164.5% của năm 2024 và 188.46% của năm 2023, do tác động từ nợ xấu tăng mạnh trong các quý trước. Tuy vậy, nếu nhìn theo chiều ngang từng quý trong năm, bộ đệm của nhóm lại đang tăng trở lại rõ rệt, từ mức 132% của quý 1 và 126% của quý 2 lên gần 140% trong quý 3. Sự phục hồi này xuất phát từ việc xử lý nợ xấu hiệu quả hơn khi tốc độ tăng nợ xấu đã chậm lại trong kỳ, đồng thời số dư dự phòng chung tiếp tục được củng cố với mức tăng 16-17% so với cùng kỳ.
Ở khối ngân hàng tư nhân, diễn biến tương đối tích cực. Nhóm ngân hàng bán lẻ ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng từ 61.84% lên 64.4%, nhờ nợ xấu chỉ tăng 8.5% so với cùng kỳ - mức thấp nhất kể từ đầu năm 2022. Đây là tín hiệu cho thấy áp lực chất lượng tài sản của nhóm đang dần hạ nhiệt.
Nhóm ngân hàng khác đạt tỷ lệ bao phủ khoảng 41.87%, mức cao nhất trong ba năm gần đây, phản ánh nỗ lực củng cố dự phòng sau giai đoạn căng thẳng từ năm 2023. Dù vậy, nhóm này vẫn còn cách khá xa mức trung bình 65% trước đại dịch và cần tiếp tục tăng cường dự phòng để tiệm cận ngưỡng an toàn trước đây.
Ngược lại, nhóm ngân hàng bán buôn ghi nhận xu hướng kém khả quan hơn. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ 69.54% của cùng kỳ xuống 65.7%, dù chi phí dự phòng trong quý 2 và quý 3 đã được đẩy mạnh, tăng hơn 50% YoY. Nguyên nhân chính là quy mô nợ xấu của nhóm tăng tới 25% YoY, khiến nỗ lực gia tăng dự phòng chưa đủ để bù đắp áp lực chất lượng tài sản. Diễn biến này cho thấy phân hóa rõ nét trong hệ thống, khi một số nhóm ngân hàng đã bước vào giai đoạn phục hồi bộ đệm, trong khi nhóm bán buôn cần đẩy mạnh hơn hiệu quả quản trị nợ xấu.
Diễn biến mức bao phủ nợ xấu của từng ngân hàng
Diễn biến quý 3 cho thấy sự phân hóa rõ rệt khi chỉ khoảng một nửa số ngân hàng cải thiện được tỷ lệ bao phủ nợ xấu, trong khi phần còn lại đi xuống so với cùng kỳ.
Ở nhóm quốc doanh, VCB tiếp tục dẫn đầu hệ thống với tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức 201.86%. Việc đẩy mạnh trích lập chi phí dự phòng của VCB trong kỳ (+138.2% YoY) cho thấy những nỗ lực tái cơ cấu lại bộ đệm dự phòng sau giai đoạn giảm mạnh trong những năm qua để duy trì mức lợi nhuận khi NIM sụt giảm mạnh.
BID cũng ghi nhận mức giảm mạnh của bộ đệm, từ 115.73% xuống 94.53%, phần lớn do nợ nhóm 5 tăng đột biến hơn 45% so với đầu năm. Điều này buộc BID phải tăng tốc trích lập trong hai quý gần đây để bù đắp áp lực rủi ro gia tăng.
Ngược lại, CTG cải thiện đáng kể tỷ lệ bao phủ nợ xấu từ 153.01% lên 176.48%, nhờ quy mô nợ xấu giảm so với cùng kỳ và so với quý trước. Với số dư dự phòng tích lũy trước đó và tỷ lệ nợ xấu duy trì ổn định giúp CTG nâng bộ đệm tổng thể, đặc biệt là phần dự phòng chung.
Nhóm ngân hàng bán lẻ chứng kiến sự cải thiện rõ rệt về tỷ lệ bao phủ nợ xấu, thu hẹp khoảng cách với nhóm bán buôn trong năm nay. Đáng chú ý là STB, tỷ lệ LLR tăng vọt lên 93.26% trong quý 3, từ 75% của quý trước, chủ yếu nhờ bổ sung mạnh vào dự phòng cụ thể. Điều này diễn ra trong bối cảnh nợ xấu của STB tiếp tục tăng lên 2.75%, cao hơn mức 2.5% của quý 2 và cùng kỳ, trong khi nợ nhóm 5 chiếm gần 70% tổng nợ xấu, tạo áp lực buộc ngân hàng phải củng cố dự phòng.
ACB, TPB và VPB cũng cải thiện tỷ lệ bao phủ, ghi nhận lần lượt 84.02%, 61.22% và 55.05% trong quý 3. Ngược lại, VIB giảm gần 8% so với cùng kỳ, do mức trích lập tương đương cùng kỳ trong khi quy mô nợ xấu tăng nhẹ, khiến bộ đệm chung bị mỏng đi tương đối.
Diễn biến tỷ lệ bao phủ nợ xấu từng ngân hàng
Đối với nhóm ngân hàng bán buôn, xu hướng suy giảm tỷ lệ bao phủ nợ xấu nhìn chung diễn ra phổ biến. TCB và MBB là hai ngoại lệ hiếm hoi, duy trì được bộ đệm tương đối tốt với tỷ lệ bao phủ lần lượt 119.24% và 79.21%. Bên cạnh việc đáp ứng trích lập dự phòng cụ thể theo quy định, cả hai ngân hàng đều tăng mạnh phần dự phòng chung, trên 20% so với cùng kỳ, cho thấy chiến lược củng cố bộ đệm thận trọng hơn.
Ngược lại, SSB và MSB chứng kiến mức giảm khoảng 9% so với cùng kỳ, trong bối cảnh chi phí dự phòng đi xuống trong khi tổng nợ xấu tăng nhẹ. Đáng chú ý nhất là HDB, nơi tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm mạnh từ 65.87% xuống 43.37% trong quý 3. Sự suy giảm sâu này phản ánh sức ép đáng kể từ phía rủi ro tín dụng, khi nợ xấu lũy kế 9/2025 của HDB tăng tới 66%, vượt xa tốc độ bổ sung dự phòng.
Ở nhóm ngân hàng khác, BAB tiếp tục là ngân hàng nổi bật nhất về chất lượng bộ đệm, duy trì tỷ lệ bao phủ trên 100%, đạt 108.37% trong quý 3. Đây cũng là ngân hàng có nợ xấu thấp nhất nhóm, khi quy mô nợ xấu chỉ tăng khoảng 5% từ đầu năm trong khi số dư dự phòng tăng 16.41%, cho thấy chiến lược trích lập chủ động.
VBB và BVB cũng ghi nhận sự cải thiện rõ rệt, đạt lần lượt 49.95% và 47.17%. Dù chi phí dự phòng không tăng mạnh, hai ngân hàng vẫn mở rộng được bộ đệm nhờ kiểm soát tốt tốc độ tăng nợ xấu, qua đó giảm áp lực trích lập.
Ở chiều ngược lại, VAB và EIB giảm khoảng 5% so với cùng kỳ, chủ yếu do nợ xấu tăng nhanh hơn trong quý 3 trong khi mức tăng dự phòng lại hạn chế, khiến tỷ lệ bao phủ bị thu hẹp đáng kể.
Tổng thể, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng trong quý 3 cho thấy xu hướng cải thiện, chủ yếu nhờ tốc độ tăng trưởng nợ xấu đã hạ nhiệt đáng kể và nhiều ngân hàng tiếp tục bổ sung đều đặn phần dự phòng chung. Tuy nhiên, sự cải thiện này không mang tính đồng đều, khi vẫn có những ngân hàng ghi nhận tỷ lệ bao phủ suy giảm do hiệu quả kiểm soát nợ xấu chưa thực sự rõ nét.
Lê Hoài Ân, CFA
fili - 07:00:00 21/11/2025


Quý 3/2025 đánh dấu một cột mốc lịch sử khi VN-Index vượt đỉnh, trong đó nhóm ngân hàng đã đóng vai trò dẫn dắt không thể thay thế. Tuy nhiên, điều thú vị là chiều ngược lại, chính sự sôi động của thị trường chứng khoán cũng tạo ra cú hích mạnh mẽ cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, đặc biệt nhóm sở hữu các công ty chứng khoán.
Nhóm ngân hàng – “động cơ” kéo VN-Index lên đỉnh lịch sử
Quý 3/2025 chứng kiến sự bùng nổ của thị trường chứng khoán Việt Nam, khi VN-Index liên tục vượt các mốc tâm lý quan trọng. Trong quá trình này, nhóm ngân hàng — vốn chiếm tỷ trọng lớn trong rổ chỉ số — đã đóng vai trò then chốt.
Dù thị trường đang trải qua giai đoạn hạ nhiệt nhanh từ đỉnh thời đại mới, thống kê tới hết phiên 18/11 cho thấy vẫn đang có 12/27 mã ngân hàng đang chiến thắng VN-Index, tương đương đương tỷ lệ 44.44%.
Đặc biệt, vẫn còn một số cái tên tăng trưởng hơn 2 lần với đầu năm — tiêu biểu như KLB (+118.5%), SHB (+109.6%) và ABB (+102.4%) — cho thấy dòng tiền ở những mã tăng mạnh nhất ngành ngân hàng vẫn chưa hoàn toàn rút ra.
Trong đó, SHB là cái tên thành công nhất. Không chỉ tăng giá mạnh, SHB còn là mã có thanh khoản cao nhất ngành, đóng góp lớn vào tổng thanh khoản thị trường.
Cùng với đó, MBB (+44.7%), VPB (+54.1%), TCB (+47.2%) cũng là những trường hợp thành công khi duy trì khớp lệnh 20 phiên gần nhất bình quân trên 10 triệu cổ phiếu/phiên.
Phần lớn cổ phiếu ngân hàng đã bước vào trạng thái điều chỉnh hoặc thị trường “con gấu”, phản ánh hoạt động chốt lời mạnh sau nhịp tăng theo hiệu ứng nâng hạng thị trường. Tuy nhiên, hai mã LPB và ABB là hiếm hoi giữ mức điều chỉnh dưới 10% so với đỉnh năm.
Theo ghi nhận về xu hướng dài hạn, nhóm ngân hàng vẫn duy trì trên 80% số mã trong trạng thái tăng kéo dài từ tháng 7/2025 đến nay, tức gần 4 tháng liên tiếp.
Độ rộng của các cổ phiếu Ngân hàng vẫn ghi nhận trên 80% các mã có xu hướng tăng dài hạn. (Tính đến hết phiên giao dịch 18/11)
Đây là mức độ bền vững mà thị trường đã không còn thấy lại kể từ thời kỳ bùng nổ COVID-19 giai đoạn 2020–2022, khi dòng tiền mang tính đầu cơ lẫn dài hạn ồ ạt vào cổ phiếu ngành ngân hàng.
Các ngân hàng sở hữu CTCK ghi nhận tác động của thị trường vào hoạt động
Nếu như ngân hàng đã giúp thị trường chứng khoán lập đỉnh, thì chiều ngược lại, chính thị trường chứng khoán cũng đang đóng góp đáng kể vào kết quả kinh doanh của các ngân hàng trong năm 2025.
Đặc biệt với các công ty chứng khoán thuộc sở hữu ngân hàng. Với sự bùng nổ mạnh mẽ của thị trường, hoạt động môi giới, cho vay margin và tự doanh đều ghi nhận những số liệu ấn tượng.
Theo SSI Research, thu nhập từ chứng khoán kinh doanh và đầu tư của các ngân hàng trong quý 3/2025 tăng tới 33 lần so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng thu nhập ngoài lãi toàn ngành. Qua đó, cho thấy thị trường chứng khoán đã trở thành nguồn lợi nhuận bổ sung cực kỳ quan trọng.
Các ngân hàng như ACB, TCB và VPB là những cái tên hưởng lợi lớn từ nguồn thu tại công ty chứng khoán trực thuộc như ACBS, TCBS và VBPankS.
Nhờ đó, thu nhập ngoài lãi tăng 21% so với cùng kỳ, góp phần giảm áp lực từ việc NIM đang thu hẹp và chi phí vốn tăng.
Các ngân hàng trong phạm vi nghiên cứu của SSI đạt 74.9 nghìn tỷ đồng lợi nhuận trước thuế (LNTT) trong quý 3/2025, tăng 23% so với cùng kỳ và gần như đi ngang so với quý liền trước.
Lũy kế 9 tháng năm 2025, LNTT các ngân hàng được theo dõi đạt 216.4 nghìn tỷ đồng, tăng 16.3% so với cùng kỳ.
Nhóm ngân hàng quốc doanh tăng trưởng 18%, trong khi nhóm ngân hàng tư nhân đạt 15%.
SSI kỳ vọng tăng trưởng lợi nhuận sẽ chậm lại trong quý 4/2025 do nền cao, nhưng các ngân hàng như TCB, VPB, HDB vẫn sẽ dẫn dắt nhờ tín dụng mở rộng tích cực và biên lợi nhuận ổn định.
Sau khi đạt đỉnh vào tháng 8/2025, Chứng khoán SSI cho biết hệ số P/B trượt trung bình của nhóm được theo dõi đã giảm 16.4% xuống 1.53x, thấp hơn mức trung bình 5 năm (1.65x). P/B dự phóng 2026 chỉ còn 1.28x, trong khi lợi nhuận dự kiến tăng 18%.
Quân Mai
FILI - 12:00:00 19/11/2025

Bức tranh tổng thể hiện tại cho thấy thanh khoản hệ thống vẫn đang ổn định. Dù vậy, sự thận trọng trong điều hành là vô cùng cần thiết ở thời điểm này để duy trì biên độ an toàn tài chính và quan trọng hơn là giữ vững niềm tin của thị trường và người gửi tiền.
Tín dụng tăng mạnh hơn huy động
Dữ liệu từ VietstockFinance cho thấy, tính đến 30/09/2025, tổng dư nợ tại 28 ngân hàng trong hệ thống là hơn 13.68 triệu tỷ đồng, tăng 15% so với đầu năm.
Trong đó, NCB (NVB) tăng trưởng tín dụng mạnh nhất (+33%), tiếp sau đó là VPBank (VPB, +29%), Techcombank (TCB, +21%), MB (MBB, +20%) và TPBank (TPB, +18%), Nam A Bank (NAB, +18%)… Saigonbank (SGB) là ngân hàng duy nhất tăng trưởng tín dụng âm với mức -6%.
Tổng lượng tiền gửi khách hàng tại 28 ngân hàng là hơn 12.33 triệu tỷ đồng, tăng 10% so với đầu năm.
Tất cả ngân hàng trong hệ thống đều tăng trưởng tiền gửi so với đầu năm. Trong đó, ABB là ngân hàng thu hút lượng tiền gửi mạnh nhất (+31%), kế đó là NVB (+24%), NAB (+22%), VPB (+21%) và MSB (+19%).
Cho vay khách hàng và tiền gửi khách hàng tính đến 30/09/2025 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Tỷ lệ LDR tăng trở lại
Tín dụng tăng 15% trong khi huy động tăng 10%, khiến tỷ lệ cho vay trên huy động LDR (Loan to Deposit Ratio) tại thời điểm cuối quý 3 của các ngân hàng tăng trưởng trở lại. Tỷ lệ LDR bình quân của 28 ngân hàng vào cuối quý 3 là 93.51%, tăng mạnh so với mức 91.96% cuối quý 2 và cao hơn cả mức 92.58% của đầu năm.
Chỉ có 9/29 ngân hàng có tỷ lệ LDR giảm so với đầu năm, giảm mạnh so với 16 ngân hàng thời điểm cuối quý 2, cho thấy các ngân hàng đã tăng trưởng tín dụng mạnh hơn.
Tính đến 30/09/2025, có 7 ngân hàng đạt tỷ lệ LDR dưới 85%. Có 4 ngân hàng đưa tỷ lệ này vượt mức 100%, gồm: VPB (129.55%), VIB(111.24%), SeABank (SSB, 110.34%) và VietinBank (CTG, 101.68%).
Tỷ lệ LDR của các ngân hàng tính đến 30/09/2025Nguồn: VietstockFinance
Áp lực lên thanh khoản
PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân - Giảng viên cấp cao, Đại học Kinh tế TPHCM nhận định, tỷ lệ LDR quý 3 đã tăng lên so với cuối quý 2 và cả thời điểm đầu năm, có thể đang gây áp lực lên thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Không chỉ gây áp lực, đây còn là lý do trực tiếp và căn bản nhất lý giải cho việc lãi suất huy động đã tăng trở lại trong thời gian gần đây, dù trước đó đã giảm sâu.
Chúng ta cần hiểu rõ bản chất của chỉ số LDR. Tỷ lệ này đo lường mức độ mà ngân hàng dùng vốn huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế để cho vay. Khi tỷ lệ LDR tăng lên, điều đó có nghĩa là tốc độ tăng trưởng tín dụng đang cao hơn tốc độ tăng trưởng huy động vốn.
Việc các ngân hàng cho vay nhiều hơn chắc chắn sẽ gây áp lực lên dự trữ thanh khoản. Tuy nhiên, áp lực lớn nhất không chỉ đến từ rủi ro thanh khoản nội tại mà còn đến từ quy định pháp lý.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định mức trần LDR (85% đối với các ngân hàng thương mại) như một trong những chỉ số an toàn hoạt động. Khi ngân hàng cho vay nhiều, khiến tỷ lệ LDR tiến sát ngưỡng trần quy định, có thể sẽ phải giảm tốc độ cho vay (điều này không ngân hàng nào mong muốn vì làm giảm lợi nhuận), hoặc phải tăng cường huy động vốn vào để cân đối lại tỷ lệ.
Để tăng huy động, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, công cụ nhanh và hiệu quả nhất chính là tăng lãi suất tiền gửi để thu hút dòng tiền nhàn rỗi từ người dân và doanh nghiệp. Do đó, việc LDR tăng cao đã tạo ra áp lực và buộc các ngân hàng phải tham gia vào cuộc đua tăng lãi suất huy động. Động thái này vừa giúp các ngân hàng có thêm vốn để cho vay, đồng thời vẫn đảm bảo tuân thủ các hệ số an toàn vốn và thanh khoản theo quy định.
Ông Nguyễn Quang Huy - CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường đại học Nguyễn Trãi cho rằng, tỷ lệ LDR tăng trở lại là tín hiệu của phục hồi tín dụng, nhưng đồng thời cũng là lời nhắc nhở về yêu cầu phải quản trị thanh khoản chặt chẽ hơn.
Con số LDR tăng từ 91.96% vào cuối quý 2 lên 93.51% vào cuối quý 3 là minh chứng cho thấy "vòng quay vốn tín dụng đã thực sự khởi động lại".
Trong giai đoạn trước, các ngân hàng có thể đã huy động được vốn nhưng lại gặp khó khăn trong việc cho vay (tín dụng tăng trưởng chậm), khiến vốn bị "tồn đọng". Tỷ lệ LDR tăng lên cho thấy lượng vốn này đã bắt đầu được đưa ra nền kinh tế hiệu quả hơn. Sau thời gian dài, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và người dân đang phục hồi.
Tuy nhiên, ông Huy cũng đặc biệt nhấn mạnh đến mặt thách thức. Khi tỷ lệ LDR tiến gần đến mốc 95%, áp lực về thanh khoản chắc chắn sẽ bắt đầu xuất hiện. Có thể sẽ không dàn đều ra toàn hệ thống ngay lập tức, mà mang tính "cục bộ". Một số ngân hàng thương mại, đặc biệt là những ngân hàng đã đẩy mạnh cho vay nhanh trong quý vừa qua, sẽ bắt đầu cảm thấy "căng" về nguồn vốn và phải điều chỉnh để cân đối lại.
Khi áp lực này xuất hiện, các ngân hàng sẽ buộc phải triển khai các biện pháp nghiệp vụ để đảm bảo an toàn thanh khoản và tuân thủ quy định.
Tăng cường huy động là giải pháp nền tảng nhất. Các ngân hàng sẽ phải đẩy mạnh huy động vốn, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn (vốn có tính ổn định cao) để cân đối lại với các khoản cho vay dài hạn, thường dẫn đến việc tăng lãi suất huy động.
Các ngân hàng cũng sẽ tích cực hơn trong việc phát hành giấy tờ có giá (chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu...) để huy động vốn từ thị trường cấp 2.
Trong ngắn hạn, các ngân hàng sẽ phải tận dụng linh hoạt kênh liên ngân hàng (vay mượn lẫn nhau) và các công cụ hỗ trợ từ thị trường mở (OMO) của NHNN để bù đắp các thiếu hụt thanh khoản tức thời.
Theo ông Huy, bức tranh tổng thể hiện tại cho thấy thanh khoản hệ thống vẫn đang ổn định. Dù vậy, sự thận trọng trong điều hành là vô cùng cần thiết ở thời điểm này để duy trì biên độ an toàn tài chính, và quan trọng hơn là giữ vững niềm tin của thị trường và người gửi tiền.
Cát Lam
FILI - 10:00:00 19/11/2025

Tín dụng hồi phục ở mức cao và dự báo sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng tốt bởi nhu cầu vốn lớn từ khu vực bán lẻ và doanh nghiệp, từ sự lan toả của đầu tư công, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% năm 2025. Ngành ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực tài chính, củng cố nền tảng vững chắc cho chiến lược tăng trưởng, đáp ứng dòng vốn cho nền kinh tế.
Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống cao nhất 15 năm
Trong 10 tháng đầu năm nay, hệ thống ngân hàng đã bơm thêm 2.1 triệu tỷ đồng ra nền kinh tế. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng này và mục tiêu tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng tín dụng cả năm nay có thể đạt 19-20%, là mức tăng cao nhất trong khoảng 15 năm trở lại đây.
Tính đến ngày 31/10, theo thống kê của CTCK Rồng Việt, toàn bộ 27 ngân hàng niêm yết đều công bố báo cáo tài chính quý 3/2025, hé lộ tổng dư nợ cho vay khách hàng của các ngân hàng đạt 13.6 triệu tỷ đồng, tăng 15% so với cuối năm 2024 (quy mô tín dụng đạt 13.8 triệu tỷ đồng, tăng 14.5%), phản ánh nhu cầu tín dụng tăng trưởng mạnh mẽ toàn hệ thống trong môi trường lãi suất ổn định.
Tuy nhiên, tăng trưởng huy động của các ngân hàng niêm yết đạt 11.4%. Đồng nghĩa, khoảng cách giữa tăng trưởng huy động - tăng trưởng tín dụng đã nới rộng lên mức -3.1 điểm phần trăm sau khi đã bắt kịp trong quý trước khoảng cách chỉ là 10 điểm phần trăm. Các con số này một phần lý giải xu hướng tăng vốn điều lệ của nhiều ngân hàng trong thời gian qua.
Trong sự kiện đầu tháng 11 vừa qua, TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni ước tính, nếu Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 10% từ nay đến 2030, thì quy mô tín dụng của nền kinh tế sẽ phải tăng gấp đôi. Khi đó, tài sản của hệ thống ngân hàng, vốn chủ sở hữu và các yếu tố liên quan cũng sẽ tăng tương ứng. Vai trò của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế là vô cùng quan trọng.
Ở nhóm tư nhân, nhiều ngân hàng cũng đã và đang có kế hoạch tăng vốn chủ yếu qua chia cổ tức bằng cổ phiếu hàng năm như: SHB, MBB, OCB, KLB, MSB, VietABank…
Mới đây, SHB công bố kế hoạch tăng vốn điều lệ thêm 7,500 tỷ đồng, dự kiện lên mức 53,442 tỷ đồng, thông qua: (1) phát hành hơn 90 triệu cp ESOP, (2) phát hành cho cổ đông hiện hữu hơn 459 triệu cp và (3) phát hành riêng lẻ 200 triệu cp cho nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Lợi thế nghiêng về ngân hàng có khả năng về vốn và hệ số an toàn CAR cao
Nhiều ý kiến chuyên gia đồng thuận, tăng trưởng tín dụng ở mức cao được đánh giá sẽ tiếp tục duy trì trong những năm tới, góp phần hỗ trợ nền kinh tế đạt mục tiêu tăng trưởng hai chữ số.
Trong đó, nhóm ngân hàng tư nhân được kỳ vọng sẽ tiếp đà tăng trưởng tín dụng, với mức tăng bình quân trên 20%/năm trong ba năm tới. Khi định hướng điều hành bằng hạn mức tăng trưởng tín dụng điều chỉnh theo hướng để các ngân hàng tăng trưởng dựa trên cơ chế thị trường, các ngân hàng có khả năng về vốn và hệ số an toàn vốn (CAR) cao sẽ có ưu thế.
Như trường hợp của SHB, sau khi tăng vốn thành công, vốn điều lệ của nhà băng này sẽ ở mức hơn 53,400 tỷ đồng, lên thêm một bậc lên TOP 4 ngân hàng tư nhân có quy mô vốn điều lệ lớn nhất trong hệ thống. SHB cũng là ngân hàng được biết đến thường xuyên duy trì hệ số CAR ở quanh trên 12%, vượt xa so với quy định tối thiểu 8%.
Nguồn vốn huy động được sẽ giúp SHB mở rộng quy mô cho vay, đáp ứng tốt các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động ngân hàng và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, song song với đẩy mạnh chuyển đổi với mục tiêu trở thành ngân hàng hiệu quả nhất, ngân hàng bán lẻ hiện đại hàng đầu khu vực.
Qua bức tranh kết quả kinh doanh quý 3/2025, SHB ghi nhận tăng trưởng tín dụng 15%, dòng vốn tín dụng chảy vào các lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế, đóng góp tăng trưởng đáng kể trong GDP. SHB cũng đạt kết quả kinh doanh ấn tượng trong 9 tháng đầu năm với lợi nhuận trước thuế đạt hơn 12,300 tỷ đồng, tăng 36% so với cùng kỳ năm trước và thực hiện 85% kế hoạch năm 2025.
Biên lợi nhuận (NIM) của Ngân hàng đang có xu hướng gia tăng từ 3.23% (quý 1/2025) lên 3.9% (quý 3/2025). Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) cũng tích cực, cải thiện từ 16.71% lên 19.23%.
Các con số trên cho thấy tăng trưởng bền vững của Ngân hàng, và kỳ vọng quý cuối năm có thể đẩy kết quả của SHB vượt kế hoạch năm 2025 đã đặt ra.
Cùng với tiềm năng tăng trưởng từ nội lực phát triển của ngân hàng, trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu SHB còn hấp dẫn nhà đầu tư khi được dự báo là một trong 28 ứng cử viên sáng giá cho danh mục FTSE Global All Cap - khi thỏa các tiêu chí về quy mô, thanh khoản và mức độ minh bạch thông tin theo chuẩn FTSE để được thêm vào rổ chỉ số toàn cầu. Đây là cơ hội để thu hút dòng vốn ngoại đến với cổ phiếu SHB, trong bối cảnh “room” ngoại của Ngân hàng vẫn đang còn nhiều dư địa.
Trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và toàn diện, SHB đang thướng đến mục tiêu trở thành Ngân hàng TOP 1 về hiệu quả; Ngân hàng Số được yêu thích nhất; Ngân hàng Bán lẻ tốt nhất đồng thời là Ngân hàng TOP đầu cung ứng nguồn vốn, sản phẩm tài chính dịch vụ với khách hàng doanh nghiệp chiến lược tư nhân và Nhà nước, có chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, hệ sinh thái, phát triển xanh. Tầm nhìn đến năm 2035, SHB trở thành Ngân hàng bán lẻ hiện đại, Ngân hàng xanh, Ngân hàng số trong TOP đầu của khu vực.
Minh Tài
FILI - 14:35:51 18/11/2025
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。