行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值












VIP跟單
所有跟單
所有比賽



英國貿易帳 (10月)公:--
預: --
前: --
英國服務業指數月增率公:--
預: --
前: --
英國建築業產出月增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
英國工業產出年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
英國貿易帳 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
英國對歐盟貿易帳 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
英國製造業產出年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
英國GDP月增率 (10月)公:--
預: --
前: --
英國GDP年增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
英國工業產出月增率 (10月)公:--
預: --
前: --
英國建築業產出年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
法國HICP月增率終值 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸未償還貸款增長年增率 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸M2貨幣供應量年增率 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸M0貨幣供應量年增率 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸M1貨幣供應量年增率 (11月)公:--
預: --
前: --
印度CPI年增率 (11月)公:--
預: --
前: --
印度存款增長年增率公:--
預: --
前: --
巴西服務業增長年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
墨西哥工業產值年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
俄羅斯貿易帳 (10月)公:--
預: --
前: --
費城聯邦儲備銀行主席保爾森發表講話
加拿大營建許可月增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
加拿大批發銷售年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
加拿大批發庫存月增率 (10月)公:--
預: --
前: --
加拿大批發庫存年增率 (10月)公:--
預: --
前: --
加拿大批發銷售月增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
前: --
德國貿易經常帳 (未季調) (10月)公:--
預: --
前: --
美國當週鑽井總數公:--
預: --
前: --
美國當周石油鑽井總數公:--
預: --
前: --
日本短觀大型非製造業景氣判斷指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀小型製造業前景指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀大型非製造業前景指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀大型製造業前景指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀小型製造業景氣判斷指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀大型製造業景氣判斷指數 (第四季度)--
預: --
前: --
日本短觀大型企業資本支出年增率 (第四季度)--
預: --
前: --
英國Rightmove住宅銷售價格指數年增率 (12月)--
預: --
前: --
中國大陸工業產出年增率 (年初至今) (11月)--
預: --
前: --
中國大陸城鎮失業率 (11月)--
預: --
前: --
沙地阿拉伯CPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
歐元區工業產出年增率 (10月)--
預: --
前: --
歐元區工業產出月增率 (10月)--
預: --
前: --
加拿大成屋銷售月增率 (11月)--
預: --
前: --
歐元區儲備資產總額 (11月)--
預: --
前: --
英國通膨預期--
預: --
前: --
加拿大全國經濟信心指數--
預: --
前: --
加拿大新屋開工率 (11月)--
預: --
前: --
美國紐約聯邦儲備銀行製造業就業指數 (12月)--
預: --
前: --
美國紐約聯邦儲備銀行製造業指數 (12月)--
預: --
前: --
加拿大核心消費者物價指數 (CPI) 年增率 (11月)--
預: --
前: --
加拿大製造業未完成訂單月增率 (10月)--
預: --
前: --
加拿大製造業新訂單月增率 (10月)--
預: --
前: --
加拿大核心消費者物價指數 (CPI) 月增率 (11月)--
預: --
前: --
加拿大製造業庫存月增率 (10月)--
預: --
前: --
加拿大CPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
加拿大CPI月增率 (11月)--
預: --
前: --
加拿大CPI年增率 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
加拿大核心消費者物價指數 (CPI) 月增率 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
加拿大CPI月增率 (季調後) (11月)--
預: --
前: --


無匹配數據

Quý 2/2025, các doanh nghiệp nhựa xây dựng duy trì vai trò dẫn dắt ngành khi cả BMP và NTP đều công bố lợi nhuận kỷ lục.
Theo dữ liệu từ VietstockFinance, 18 doanh nghiệp nhựa/bao bì trên sàn đạt doanh thu 12.4 ngàn tỷ đồng, tăng 9.6% so với cùng kỳ. Lợi nhuận ròng toàn ngành vượt 1 ngàn tỷ đồng, tăng 27%, chủ yếu nhờ hai đầu tàu NTP và BMP.
Ngoài ra, VTZ, HII, NHH, TPP cũng ghi nhận kết quả tích cực, trong khi AAA và TDP đi lùi.
Nhựa xây dựng giữ vững đà tăng trưởng
Nhựa Thiếu niên Tiền Phong lần đầu đạt doanh thu gần 1.99 ngàn tỷ đồng, tăng 18%; lãi ròng 320 tỷ đồng, tăng 35%.
Doanh thu Nhựa Bình Minh đạt 1.3 ngàn tỷ đồng, tăng 13%; lợi nhuận 330 tỷ đồng, tăng 18%. Dù chưa lập đỉnh doanh thu mới, biên lãi gộp 46.7% đã giúp BMP báo lãi ròng cao nhất từ trước đến nay.
Diễn biến tích cực được cho là đến từ giá hạt nhựa PVC duy trì ở vùng thấp, cùng với sự phục hồi của thị trường xây dựng, đặc biệt nhờ các dự án đầu tư công tăng tốc.
Biên lãi gộp BMP liên tục cải thiện theo đà giảm của giá hạt nhựa PVC
Lợi nhuận NTP cũng tăng mạnh và tạo đỉnh mới
Đà thuận lợi kéo dài giúp cả hai doanh nghiệp duy trì lượng tiền ở mặt bằng cao nhất từ trước đến nay. Cuối quý 2, NTP nắm giữ hơn 3 ngàn tỷ đồng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng, còn BMP gần 2.3 ngàn tỷ đồng.
Tồn kho và các khoản phải thu ngắn hạn từ khách hàng đều ở mức thấp nhiều năm, phản ánh hoạt động kinh doanh đang thuận lợi.
Tiền gửi ngân hàng của NTP và BMP liên tục tăng sau mỗi quý (Đvt: tỷ đồng)
Theo Chứng khoán SSI, giá hạt nhựa PVC nhiều khả năng sẽ tiếp tục ổn định trong quý 3, quanh mức 700 USD/tấn như từ đầu năm. Nhu cầu Trung Quốc có cải thiện nhưng khó tạo cú hích cho thị trường toàn cầu.
Tại Việt Nam, thị trường bất động sản đang khởi sắc với nhiều dự án tái khởi động và chính sách hỗ trợ nhà ở, qua đó thúc đẩy nhu cầu xây dựng trung hạn. Tuy vậy, triển vọng sản xuất tại Trung Quốc vẫn yếu, công suất các nhà máy PVC khó quay lại mức 2021 trước năm 2032, khiến giá có thể duy trì vùng thấp trong thời gian dài.
Nhựa gia dụng cũng tích cực
Mảng nhựa gia dụng cũng là một điểm sáng. Nhựa Việt Thành ghi nhận doanh thu 1.2 ngàn tỷ đồng, tăng gần 49%. Lợi nhuận 24 tỷ đồng, gấp 5 lần cùng kỳ nhờ mở rộng kênh phân phối và bán hàng trực tuyến.
Tân Phú Việt Nam lập kỷ lục mới với doanh thu 859 tỷ đồng, tăng nhẹ; nhưng lợi nhuận ròng tăng 181%, lên 25 tỷ đồng nhờ tối ưu chi phí bán hàng.
Trái chiều ở nhóm An Phát Holdings
Một số doanh nghiệp thuộc An Phát Holdings dù lợi nhuận tăng mạnh, song chủ yếu nhờ thu hồi khoản đầu tư tài chính do giảm vốn tại CTCP Sản xuất PBAT An Phát.
Nhựa Hà Nội báo lãi gấp đôi cùng kỳ, 71 tỷ đồng. Hoạt động chính cũng cải thiện khi doanh thu đạt 636 tỷ đồng, cao nhất 10 quý. An Tiến Industries lãi đậm 59 tỷ đồng, gấp 3 lần. Tuy nhiên, mảng cốt lõi cho thấy sự suy yếu khi biên lợi nhuận gộp liên tục giảm, về còn 6.7%.
Nhựa An Phát Xanh lại đi ngược xu hướng, doanh thu giảm 17% xuống 2.3 ngàn tỷ đồng. Lợi nhuận 121 tỷ đồng, giảm 11%. Nguyên nhân do không còn hợp nhất số liệu của HII, khiến lợi ích về tay cổ đông thiểu số tăng mạnh từ 2 tỷ đồng lên 50 tỷ đồng.
Nhóm nhựa xây dựng và gia dụng có quý tích cực (Đvt: tỷ đồng)
Bao bì nhựa phân hóa
Mảng bao bì ghi nhận kết quả trái chiều. VICEM Bao bì Hải Phòng gây chú ý với doanh thu 65 tỷ đồng, tăng 58%, cao nhất kể từ năm 2019. Nhựa Bao bì Vinh lãi 7.6 tỷ đồng, tăng 12%.
Ở chiều ngược lại, nhiều doanh nghiệp giảm lãi. Thuận Đức có doanh thu 1.12 ngàn tỷ đồng, tăng 12%, nhưng lợi nhuận giảm 17% do chi phí đội lên.
Nhựa Tân Đại Hưng chỉ còn lãi 2 tỷ đồng, giảm hơn 60%. Bao bì Bút Sơn giảm 29% lợi nhuận, còn 2.5 tỷ đồng, trong khi Bao bì Bỉm Sơn sụt 32% do chi phí nguyên liệu tăng.
Không ít doanh nghiệp báo lãi giảm quý 2/2025 (Đvt: tỷ đồng)
Tử Kính
FILI - 10:00:00 04/09/2025

CTCP Nhựa Hà Nội rót hơn 364 tỷ đồng vào An Trung Industries, công ty chuyên cung cấp linh kiện nhựa cho nhiều tập đoàn FDI lớn như Samsung, Toyota, Foxconn, Panasonic...
Theo nghị quyết HĐQT ngày 29/07, NHH đã hoàn tất tăng vốn cho Công ty TNHH An Trung Industries (ATI) từ 441 tỷ lên hơn 805 tỷ đồng. Số tiền hơn 364 tỷ đồng được NHH rót vào ATI là toàn bộ nguồn thu từ đợt chào bán cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu kết thúc hôm 16/07.
Sau đợt phát hành, tỷ lệ sở hữu của công ty mẹ Nhựa An Phát Xanh tại NHH tăng lên 70.89%. Trong khi đó, một cổ đông lớn khác là ông Lê Xuân Lương nắm 10.01%.
Số vốn tăng thêm sẽ giúp ATI triển khai dự án nhà máy mới chuyên sản xuất khuôn mẫu và linh kiện nhựa kỹ thuật cao tại khu công nghiệp An Phát 1, tỉnh Hải Dương (cũ).
Dự án có tổng vốn đầu tư hơn 1.15 ngàn tỷ đồng, trong đó giai đoạn đầu dự kiến hoàn thành cuối năm 2026. Khi đi vào hoạt động ổn định, nhà máy có thể sản xuất 15,500 tấn sản phẩm và 340 bộ khuôn mỗi năm, hướng tới doanh thu khoảng 1.6 ngàn tỷ đồng/năm. ATI hiện sở hữu nhà máy 9,200m2 hoạt động từ 2019, với 40 máy ép nhựa công suất thiết kế hơn 23 triệu sản phẩm/năm.
Nói về lý do đầu tư mở rộng năng lực sản xuất tại công ty con, NHH cho biết, ATI có lợi thế là đơn vị gia công linh kiện cho nhiều tập đoàn trong và ngoài nước, như Samsung, Toyota, Foxconn, PowerNet, Panasonic, VinFast, Walmart, Brother Việt Nam… Các sản phẩm gồm vỏ tivi, linh kiện xe máy, máy giặt, máy lọc không khí… Một phần đáng kể trong số các khách hàng này đã có kế hoạch mở rộng sản xuất tại Việt Nam trong thời gian tới.
Năng lực hiện tại của ATI đạt khoảng 1,000 tấn sản phẩm nhựa mỗi năm nhưng đã khai thác hết công suất. Do hạn chế về diện tích, Công ty phải thuê kho ngoài và từng từ chối một số đơn hàng trị giá hàng triệu USD từ Nhật, Mỹ, Hàn Quốc và châu Âu. Khách hàng cũng yêu cầu mở rộng phân xưởng lắp ráp và cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường. Riêng khu vực bố trí dây chuyền lắp ráp cho đơn hàng của PowerNet dự kiến tăng từ 3,000m2 lên 5,000m2 nhằm đáp ứng kế hoạch mở rộng sắp tới.
Theo NHH, việc đầu tư dự án mới tại KCN An Phát 1 là bước đi chiến lược để đón đầu nhu cầu gia tăng từ các tập đoàn FDI. ATI sẽ thuê nhà xưởng thay vì đầu tư xây dựng, giúp tiết kiệm chi phí. Mặt bằng gần 118,500m2 đã giải phóng và sẵn sàng xây dựng. Dự án cũng được hưởng ưu đãi thuế lớn với chính sách miễn thuế đối với dự án đầu tư mới tại KCN An Phát 1; cùng thuế suất ưu đãi đối với mảng công nghiệp hỗ trợ.
NHH cho biết ATI sẽ tận dụng kinh nghiệm hơn 30 năm của công ty mẹ trong lĩnh vực ép nhựa kỹ thuật và tham gia chuỗi cung ứng cho các hãng lớn như Honda, Piaggio, LG hay Daikin. Đây cũng là điểm khác biệt mà NHH nhấn mạnh so với các đối thủ nội địa như Nhựa Rạng Đông hay Nhựa Duy Tân, nhờ tập trung sâu vào ngành công nghiệp hỗ trợ, lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao và khả năng tùy biến linh hoạt. Dù vậy, NHH cũng thừa nhận quy mô hiện tại của Công ty vẫn còn khiêm tốn nếu so với các đối thủ FDI như Fujikura hay Nidec.
An Trung Industries tiền thân là CTCP Đại An Industries, thành lập năm 2018 tại tỉnh Hải Dương (cũ), chuyên sản xuất hạt nhựa và các sản phẩm nhựa. Khi mới thành lập, Công ty có vốn điều lệ 10 tỷ đồng, với cơ cấu sở hữu gồm CTCP Khu công nghiệp Kỹ thuật cao An Phát nắm 10%, ông Nguyễn Văn Khoản 65% và ông Nguyễn Văn Bình 25%. Ông Khoản cũng giữ vai trò Giám đốc kiêm người đại diện pháp luật cho đến đầu tháng 6/2025, khi vị trí này được chuyển giao cho ông Lê Anh Dũng.
Trong quý 2/2025, Công ty TNHH MTV Cơ khí Chính xác và Chế tạo Khuôn mẫu Việt Nam (VMC) - doanh nghiệp có vốn điều lệ 100 tỷ đồng và cùng địa chỉ nhà máy với ATI, đã được NHH sáp nhập vào ATI. Sau sáp nhập, vốn điều lệ của ATI được nâng lên 441 tỷ đồng.
Tử Kính
FILI - 10:19:15 30/07/2025

Tính cả bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ, tổng số tiền bảo hiểm dự kiến chi trả trong vụ lật tàu du lịch Vịnh Xanh 58 là hơn 14 tỷ đồng.
Bồi thường bảo hiểm nhân thọ chiếm 70%
Theo số liệu báo cáo của các doanh nghiệp bảo hiểm gửi Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, tính đến 11h00 ngày 22/7, tổng số tiền bồi thường và chi trả bảo hiểm liên quan đến thiệt hại về người và tài sản trong vụ lật tàu Vịnh Xanh 58 ước khoảng 14.27 tỷ đồng.
Trong số này, các khoản bồi thường và chi trả bảo hiểm được chia thành hai nhóm chính: bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ.
Bảo hiểm phi nhân thọ chiếm khoảng 29.4% tổng số, với số tiền dự kiến 4.2 tỷ đồng. Trong đó, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu đối với hành khách và bảo hiểm tai nạn thuyền viên (Bảo Long): 1.2 tỷ đồng. Bảo hiểm tai nạn hành khách (do Bảo Việt đồng bảo hiểm với PTI, MIC và BSH): 2 tỷ đồng; Bảo hiểm tín dụng (AAA): 1 tỷ đồng; Bảo hiểm nhân thọ chiếm phần lớn với 10.07 tỷ đồng, tương đương khoảng 70.6% tổng số chi trả.
Cụ thể: Bảo Việt Nhân thọ: 2 tỷ đồng; Generali: 4.2 tỷ đồng; Manulife: 3.02 tỷ đồng; Dai-ichi Life: 0.7 tỷ đồng; Prudential: 0.1 tỷ đồng; AIA: 0.05 tỷ đồng.
Như vậy, tổng cộng 14.27 tỷ đồng dự kiến sẽ được chi trả cho các nạn nhân và gia đình bị thiệt hại. Hiện tại, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chủ động liên hệ với gia đình các nạn nhân để thực hiện quy trình bồi thường và chi trả theo hợp đồng. Tuy nhiên, phần lớn các gia đình chưa thể hoàn thiện thủ tục nhận quyền lợi bảo hiểm vì nhiều người còn đang điều trị thương tật hoặc lo mai táng.
Cơ quan quản lý đã chỉ đạo sát sao việc chi trả
Trước đó, thực hiện yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 114/CĐ-TTg ngày 19/7/2025 về việc "các cơ quan liên quan khẩn trương triển khai hiệu quả công tác... khắc phục hậu quả vụ tai nạn, kịp thời thăm hỏi, động viên, hỗ trợ gia đình những người bị nạn", Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính) đã có Công văn số 896/QLBH-PNT đề nghị các doanh nghiệp bảo hiểm chủ động phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để xác định thiệt hại về người và tài sản của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm.
Đồng thời, thực hiện ngay việc tạm ứng bồi thường, bồi thường và trả tiền bảo hiểm nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ cho bên mua bảo hiểm, người thụ hưởng theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm và quy định pháp luật. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm tổ chức thực hiện hỗ trợ nhân đạo theo quy chế nội bộ và quy định pháp luật có liên quan.
Ngoài ra, Cục đề nghị Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam phối hợp cùng các doanh nghiệp bảo hiểm tổ chức hỗ trợ nhân đạo cho nạn nhân và gia đình theo quy chế nội bộ và quy định pháp luật hiện hành. Các doanh nghiệp bảo hiểm cũng đang tiếp tục rà soát danh sách khách hàng liên quan để đảm bảo tất cả các trường hợp đủ điều kiện sẽ được xử lý bồi thường nhanh chóng.
Theo các doanh nghiệp bảo hiểm, trong thời gian tới, khi quá trình điều trị thương tật và mai táng hoàn tất, việc chi trả cho các gia đình nạn nhân sẽ được triển khai đồng loạt. Điều này nhằm giúp người bị thiệt hại và thân nhân sớm nhận được hỗ trợ tài chính để ổn định cuộc sống sau tai nạn nghiêm trọng.
Trước đó, ngày 19/7, tàu du lịch Vịnh Xanh 58 (QN-7105) chở 49 người gồm 46 du khách và 3 thuyền viên tham quan trên vịnh Hạ Long gặp nạn trên biển và bị lật úp. Vụ tai nạn khiến 36 người tử vong và 3 người vẫn đang mất tích.
Ngày 21/7, Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm đã có văn bản đề nghị Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam và các doanh nghiệp bảo hiểm báo cáo tình hình thiệt hại, bồi thường bảo hiểm trong vụ lật tàu du lịch Vịnh Xanh 58.
Cục đề nghị doanh nghiệp bảo hiểm chủ động phối hợp với cơ quan, cá nhân liên quan để xác định thiệt hại về người và tài sản của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; thực hiện ngay việc tạm ứng bồi thường, bồi thường và trả tiền bảo hiểm nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ cho bên mua bảo hiểm, người thụ hưởng theo thỏa thuận tại hợp đồng và quy định pháp luật.
Ngoài ra, trước diễn biến phức tạp của bão số 3, Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chủ động phối hợp với khách hàng thực hiện biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu thiệt hại; đồng thời sẵn sàng phương án ứng phó để bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản cho bên mua bảo hiểm. Trường hợp xảy ra tổn thất, doanh nghiệp phải kịp thời tạm ứng, chi trả bồi thường.
Nhật Quang
FILI - 12:33:00 22/07/2025

Triển vọng ngành hàng Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ phân hóa rõ nét, dưới tác động của chính sách thuế quan từ Mỹ. Trong khi nhóm xuất khẩu dệt may, gỗ, thủy sản... có thể chịu tổn thất trực tiếp thì dịch vụ hàng hóa, phân bón hay ngành điện lại giữ được vị thế nhờ ít phụ thuộc vào Mỹ và có lợi thế đầu vào.
Ngay đầu tháng 4, thị trường toàn cầu rúng động trước chính sách thuế quan mới của Mỹ. Mức thuế cơ bản 10% áp dụng cho mọi quốc gia, nhưng các nước như Việt Nam, bị đánh giá "thao túng thương mại" ở mức 90%, đối mặt với mức thuế đối ứng lên tới 46%. Dù Mỹ tạm hoãn áp dụng mức thuế này trong 90 ngày (ngoại trừ Trung Quốc) để mở đường cho đàm phán, viễn cảnh áp thuế cao vẫn là mối đe dọa hiện hữu.
Với độ mở thương mại cao và Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất, Việt Nam không tránh khỏi áp lực. Các cuộc đối thoại song phương đã được khởi động, trong đó Việt Nam nằm trong nhóm 20 quốc gia ưu tiên và đã đạt một số thỏa thuận tăng nhập khẩu từ Mỹ.
Báo cáo phân tích từ các công ty chứng khoán đều nhấn mạnh: Diễn biến và kết quả đàm phán trong thời gian tới sẽ mang tính quyết định đối với tác động thực tế đến nền kinh tế cũng như các nhóm ngành xuất khẩu chủ lực.
Không ít ngành trực tiếp chịu tác động tiêu cực
Một số nhóm ngành được đánh giá là chịu ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí rất tiêu cực, đặc biệt trong kịch bản áp thuế đối ứng 46% mà Mỹ từng công bố vào ngày 02/04/2025.
Dệt may là ngành chịu tác động trực tiếp và rõ nét nhất. Mỹ hiện là thị trường chủ lực, chiếm phần lớn doanh thu của các doanh nghiệp niêm yết như MSH, TNG, TCM. Nếu bị áp thuế 46%, hàng may mặc Việt Nam sẽ mất lợi thế cạnh tranh so với Bangladesh, Ấn Độ hay cả Trung Quốc - nơi thuế suất đã giảm từ 145% xuống 30% sau thỏa thuận với Mỹ. Các công ty buộc phải cân nhắc giảm giá bán để chia sẻ gánh nặng thuế quan với khách hàng, khiến biên lợi nhuận vốn mỏng sẽ càng bị siết chặt hơn.
Ngành chế biến gỗ cũng đối mặt nhiều thách thức. Mỹ đang là thị trường lớn nhất, chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu gỗ năm 2024. Trước khi có thỏa thuận thuế mới giữa Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam từng được hưởng lợi lớn từ việc chuyển dịch đơn hàng khỏi Trung Quốc, giúp kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ được dự báo tăng tới 10.7% so với cùng kỳ trong năm 2025.
Tuy nhiên, với việc Trung Quốc chỉ còn chịu thuế 30%, tốc độ giành thị phần của Việt Nam giảm sút và dự báo kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ còn tăng 7%, tương đương khoảng 9.5 tỷ USD. Các doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu cao sang Mỹ như PTB (75% mảng gỗ), SAV (80%), hay ACG (20%) đối mặt nguy cơ giảm đơn hàng, sụt lợi nhuận.
Ngành thủy sản chịu áp lực lớn, đặc biệt là tôm - mặt hàng Việt Nam mất lợi thế giá so với Ấn Độ và Ecuador - 2 nước chỉ bị áp thuế 27% và 10%. Các doanh nghiệp xuất khẩu lớn sang Mỹ như FMC và MPC sẽ chịu sức ép lớn nếu buộc phải chia sẻ phần thuế này với khách hàng.
Riêng mặt hàng cá tra có thể duy trì lợi thế cạnh tranh về giá so với cá rô phi tại Mỹ nhờ chênh lệch thuế với Trung Quốc. Dưới kịch bản thuế 10% với Việt Nam, xuất khẩu cá tra sang Mỹ từng được kỳ vọng tăng 10.6% trong năm 2025, nhưng triển vọng hiện tại đã thận trọng hơn, xuống còn 4.9%, do diễn biến tích cực trong đàm phán thương mại Mỹ - Trung Quốc.
Ngành bất động sản khu công nghiệp có thể bị ảnh hưởng gián tiếp từ làn sóng điều chỉnh FDI. Các doanh nghiệp chế biến chế tạo - nhóm thuê đất chính - sẽ phải cân nhắc lại kế hoạch đầu tư. Điều này khiến nhu cầu thuê mới giảm sút, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp như KBC, BCM, IDC, VGC, SZC, SIP.
Ngành dịch vụ logistics và cảng biển cũng không nằm ngoài vòng ảnh hưởng. Nếu xuất khẩu sang Mỹ suy giảm, sản lượng container thông qua cảng cũng giảm theo. Điều này tác động trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp vận tải, kho bãi và logistics nội địa.
Ngành săm lốp cũng chịu ảnh hưởng mạnh do xuất khẩu sang Mỹ chiếm khoảng 20-25% doanh thu của nhiều doanh nghiệp. DRC là ví dụ điển hình với khả năng bị bào mòn biên lợi nhuận nếu buộc phải giảm giá bán để giữ đơn hàng.
Ngoài ra, một số ngành khác như sản phẩm từ chất dẻo (AAA), cao su (DPR, GVR, PHR), giấy (TLG), xây dựng công nghiệp (CTD, HBC) và chứng khoán cũng có thể chịu ảnh hưởng ở mức độ từ "trung bình tiêu cực" đến "tiêu cực". Các yếu tố rủi ro bao gồm: Giảm đơn hàng từ Mỹ, chậm giải ngân FDI, và ảnh hưởng gián tiếp đến tâm lý thị trường.
Nhiều ngành có triển vọng tích cực hoặc trung lập
Dù chịu sức ép lớn từ chính sách thuế mới, một số ngành vẫn giữ được thế trung lập, thậm chí có triển vọng tích cực nếu diễn biến thị trường thuận lợi.
Ngành thép được xếp vào nhóm trung lập, do không nằm trong danh sách sản phẩm chịu thuế đối ứng mới. Các sản phẩm thép xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ vốn đã chịu thuế 25% từ năm 2018 theo Mục 232. Do đó, tác động trực tiếp từ chính sách thuế mới là không đáng kể. Trong khi đó, các doanh nghiệp như Hòa Phát (HPG) không phụ thuộc nhiều vào thị trường Mỹ, còn Hoa Sen (HSG) và Nam Kim (NKG) hiện đang chịu điều tra chống bán phá giá.
Ngành hóa chất cũng được đánh giá là trung lập, bởi xuất khẩu sang Mỹ chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch của ngành. DGC - doanh nghiệp đầu ngành - gần như không chịu ảnh hưởng từ chính sách mới.
Đáng chú ý, dịch vụ hàng không hàng hóa lại nổi lên như một điểm sáng. Với mức thuế cạnh tranh 10% so với Trung Quốc (30%) hay Mexico (25%), các công ty như SCS và NCT có thể hưởng lợi từ sự dịch chuyển chuỗi cung ứng, đặc biệt tại khu vực phía Bắc - nơi tập trung các nhà máy công nghệ lớn.
Phân bón cũng được hưởng lợi trong cả 2 kịch bản thuế nhờ kỳ vọng giá khí đầu vào giảm mạnh theo diễn biến giá dầu. DCM và DPM được đánh giá trung lập bởi ảnh hưởng xuất khẩu không đáng kể, tuy nhiên vẫn được xem là lựa chọn ổn định về lợi nhuận.
Trong ngành nhựa xây dựng, biên lợi nhuận gộp được hỗ trợ tích cực bởi giá hạt nhựa PVC vẫn ở vùng thấp. BMP không xuất khẩu sang Mỹ nên được Vietcap đánh giá là lựa chọn phòng thủ hiệu quả.
Ngành điện có đánh giá chung là trung lập, tuy nhiên có sự phân hóa giữa các phân khúc. Thủy điện và nhiệt điện than được đánh giá tích cực trong kịch bản 10%, do biên lợi nhuận ổn định và ít phụ thuộc vào xuất khẩu. Một số mã như BWE, QTP, REE được đánh giá cao nhờ cổ tức tốt và ổn định dài hạn.
Nhóm ngành tập trung vào thị trường nội địa hoặc hưởng lợi từ chính sách điều hành vĩ mô được chú ý. Ngân hàng được đánh giá trung lập, do ảnh hưởng gián tiếp từ xuất khẩu và FDI là không quá lớn. Tuy nhiên, định giá cổ phiếu ở vùng hấp dẫn có thể mở ra cơ hội đầu tư mới, đặc biệt ở các ngân hàng có chi phí vốn thấp và khả năng hưởng lợi từ đầu tư công.
Ngành bán lẻ và hàng tiêu dùng nhanh được cho là có triển vọng tích cực trong kịch bản thuế thấp, nhờ kỳ vọng phục hồi tiêu dùng nội địa. Tuy nhiên, trong đánh giá của MBS Research và VCBS, ảnh hưởng từ tỷ giá khiến họ xếp ngành vào mức trung lập. Vietcap thì cho rằng nhóm này có khả năng chống chịu tốt, nhất là các doanh nghiệp như MSN, MCH, VNM, FRT, FPT hay CTR vốn có doanh thu chủ yếu từ thị trường nội địa.
Ngành dược phẩm được đánh giá tích cực trong kịch bản 10%, nhưng sẽ chuyển thành trung lập nếu thuế suất lên tới 46%. Ngành nước sạch được xem là nơi phòng thủ, giữ ở mức trung lập, trong đó BWE được đánh giá cao.
Đối với ngành ô tô phân phối, dù không chịu tác động trực tiếp từ thuế quan, biến động tỷ giá có thể ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu nên được đánh giá trung lập.
Bất động sản dân dụng được hưởng lợi trong kịch bản thuế 10%, nhờ lãi suất ổn định, tiến độ pháp lý cải thiện và dòng tiền đầu tư quay lại. Các chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội cũng là yếu tố thuận lợi cho doanh nghiệp như HQC. NLG và KDH được đánh giá tích cực, trong khi một số công ty khác được xếp trung lập bởi triển vọng chưa rõ ràng.
Ngành xây dựng có thể được hưởng lợi từ đầu tư công, vốn là giải pháp được Chính phủ đẩy mạnh để hỗ trợ nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp xây dựng như VCG hay HHV hiện được xếp ở mức trung lập, do áp lực chi phí và cạnh tranh giá vẫn lớn.
Hướng đi nào cho ngành hàng Việt?
Tổng thể, triển vọng ngành hàng Việt Nam dưới chính sách thuế quan mới của Mỹ thể hiện bức tranh phân hóa mạnh mẽ. Những ngành phụ thuộc nhiều vào thị trường Mỹ, đặc biệt là các ngành có tính gia công cao, thâm dụng lao động và biên lợi nhuận thấp, sẽ bị tổn thương rõ rệt nếu kịch bản thuế cao trở thành hiện thực.
Ngược lại, một số ngành ít phụ thuộc vào Mỹ hoặc đã có sự chuẩn bị về thị trường thay thế có thể duy trì vị thế trung lập hoặc thậm chí cải thiện vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Thời gian tới, diễn biến đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ sẽ là nhân tố quyết định để định hình lại cục diện thương mại và tương lai các ngành xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế.
Các phân tích đều đồng thuận rằng, việc theo dõi sát sao diễn biến từ Mỹ và động thái từ Trung Quốc, Ấn Độ, EU là điều bắt buộc với các doanh nghiệp xuất khẩu. Đây sẽ là giai đoạn mà tính linh hoạt trong định hướng thị trường, cấu trúc đơn hàng và kiểm soát chi phí đóng vai trò sống còn.
Không chờ đợi kết quả từ bàn đàm phán, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động hành động. Họ đang gấp rút đa dạng hóa thị trường, tìm lối sang châu Âu, Nhật Bản, Trung Đông và Mỹ Latin, dù cạnh tranh tại đây dự kiến tăng cao khi Trung Quốc cũng chuyển hướng xuất khẩu. Trong nước, Chính phủ đẩy mạnh đầu tư công với ngân sách hàng tỷ USD cho cơ sở hạ tầng năm 2025, đồng thời khuyến khích tiêu dùng nội địa qua các chính sách giảm thuế và ưu đãi tín dụng.
Chính sự chủ động của doanh nghiệp, kết hợp với các chính sách hỗ trợ kịp thời và quyết liệt từ Chính phủ, sẽ là chìa khóa để Việt Nam vượt qua thời điểm khó khăn này và có thể vươn xa hơn trên bản đồ thương mại toàn cầu.
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TRONG BÃO THUẾ QUAN
Thế Mạnh (t/h)
FILI - 12:00:00 16/06/2025


Cuộc 'nổi loạn' của thị trường trái phiếu
Lần đầu tiên sau gần một thế hệ, các Chính phủ bắt đầu thường xuyên đối mặt với sự phản kháng từ nhà đầu tư khi phát hành trái phiếu dài hạn.
Các phiên đấu giá trái phiếu Chính phủ thường diễn ra đều đặn đến mức ít khi thu hút sự chú ý. Tuy nhiên, đợt phát hành trái phiếu kỳ hạn 20 năm của Nhật Bản tháng trước lại là một ngoại lệ.
Khi các hãng tin tài chính đồng loạt đưa tin về kết quả ảm đạm này, giá trái phiếu chính phủ Nhật Bản kỳ hạn dài nhất lao dốc mạnh, đẩy lợi suất tăng vọt và làm tăng chi phí vay mượn. Ngay ngày hôm sau, phiên đấu giá trái phiếu 20 năm của Mỹ cũng chỉ nhận được phản hồi hờ hững.
Việc giới đầu tư chú ý sát sao đến từng chi tiết nhỏ trong các phiên đấu giá trái phiếu Chính phủ và lợi suất trái phiếu dài hạn tăng cao là những biểu hiện cho thấy nhu cầu đối với loại tài sản này đang lung lay, đúng vào thời điểm nhiều bộ tài chính lên kế hoạch phát hành trái phiếu ở mức kỷ lục, trong bối cảnh kinh tế thế giới bước vào một kỷ nguyên mới đầy bất định.
Lần đầu tiên sau gần một thế hệ, các Chính phủ bắt đầu đối mặt với sự phản kháng từ thị trường khi phát hành trái phiếu dài hạn.
“Đây là vấn đề kinh điển về mất cân đối cung - cầu, nhưng ở quy mô toàn cầu”, Amanda Stitt, chuyên gia thu nhập cố định tại công ty quản lý tài sản T Rowe Price với quy mô 1.6 ngàn tỷ USD, nhận định. “Kỷ nguyên vốn vay dài hạn giá rẻ đã chấm dứt, giờ đây các chính phủ chen chúc trong một căn phòng đầy người bán”.
Chi phí vay dài hạn tăng mạnh trên thế giới
Sự dè dặt của một số nhà đầu tư đã đẩy chi phí vay 30 năm của các chính phủ như Anh, Nhật Bản và Mỹ lên mức cao nhất trong nhiều thập kỷ, đồng thời đưa câu chuyện về tính bền vững của nợ công lên hàng đầu trong chương trình nghị sự chính trị. Ở nhiều quốc gia, chi phí trả lãi nợ ngày càng tăng đe dọa bóp nghẹt ngân sách cho các lĩnh vực khác.
Nguồn cung tăng lên, dù do chính phủ vay thêm hay do các ngân hàng trung ương bán ra số trái phiếu đã mua sau khủng hoảng tài chính và đại dịch Covid-19, đang gặp phải sự rút lui của một số nhà đầu tư truyền thống như quỹ hưu trí và công ty bảo hiểm nhân thọ.
Các bộ tài chính đang mắc nợ có nguy cơ ngày càng dễ bị tổn thương trước sự phản ứng của nhà đầu tư trái phiếu. Những cuộc tranh cãi về chính sách thương mại của Mỹ năm nay và cuộc khủng hoảng trái phiếu chính phủ Anh năm 2022 sau “ngân sách mini” là lời cảnh báo về những gì có thể xảy ra nếu kỷ luật tài khóa không được siết chặt, các nhà đầu tư kỳ cựu cảnh báo. Hệ lụy có thể rất lớn và lan rộng, cả về cách điều hành kinh tế lẫn triển vọng của khu vực doanh nghiệp.
“Thị trường trái phiếu chưa bao giờ quyền lực đến vậy, bởi chúng ta chưa từng có nhiều nợ đến thế”, Ed Yardeni, nhà kinh tế học từng đặt ra thuật ngữ “bond vigilantes” (Đội tự kiểm trái phiếu) vào thập niên 1980 để chỉ các nhà đầu tư hành động để buộc Chính phủ phải củng cố kỷ luật tài khóa, nhận định.
“Chúng ta phải nhìn nhận vấn đề nợ ở quy mô toàn cầu”, ông nói thêm, dẫn chứng lãi suất tăng ở Anh, Nhật Bản và các nơi khác. “Rủi ro là: Các đội tự kiểm trái phiếu trên toàn thế giới sẽ liên kết lại”.
Tại trung tâm kinh tế toàn cầu, lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ trị giá 29 ngàn tỷ USD đã vượt mốc 5% trong những tuần gần đây, tiệm cận mức của năm 2023 - thời điểm nhà đầu tư lo ngại lãi suất sẽ phải duy trì ở mức cao lâu hơn để kiềm chế lạm phát - và trước đó là mức cao nhất kể từ khủng hoảng tài chính.
Điều này diễn ra đúng lúc một dự luật về thuế và chi tiêu có thể bổ sung hơn 2 ngàn tỷ USD vào nợ công Mỹ đang được Quốc hội xem xét, trong bối cảnh tác động kéo dài từ việc Tổng thống Donald Trump áp thuế lên các đối tác thương mại của Mỹ.
Một số nhân vật hàng đầu Phố Wall đã lên tiếng cảnh báo về tình hình tài khóa của nước này.
Jamie Dimon, Giám đốc điều hành JPMorgan Chase, gần đây cảnh báo rằng nợ công ngày càng tăng có thể “làm sụp đổ” thị trường trái phiếu kho bạc, buộc Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent phải trấn an rằng Mỹ “sẽ không bao giờ vỡ nợ”.
Vào ngày 05/06, Larry Fink, Giám đốc điều hành BlackRock, nhận định nếu kinh tế tiếp tục tăng trưởng khoảng 2%, “thâm hụt ngân sách sẽ nhấn chìm đất nước này”, trong khi Ken Griffin, nhà sáng lập Citadel, cho rằng việc duy trì thâm hụt 6 hoặc 7% GDP khi toàn dụng lao động là “hoàn toàn vô trách nhiệm về tài khóa”.
Elon Musk, tỷ phú công nghệ từng là khách quen tại Nhà Trắng dưới thời Trump, gọi dự luật này là một “sự ghê tởm” và cho rằng Quốc hội đang “khiến nước Mỹ phá sản”.
Gánh nặng nợ của Pháp được cựu Thủ tướng Michel Barnier mô tả là mối hiểm hoại treo lơ lửng trong năm ngoái. Nền kinh tế lớn thứ 3 châu Âu dự kiến chi 62 tỷ Euro để trả lãi vay trong năm nay, tương đương tổng chi tiêu cho quốc phòng và giáo dục, chưa kể lương hưu.
Tại Anh, chi phí vay 30 năm của Chính phủ đã lên mức cao nhất kể từ năm 1998 trong bối cảnh nhà đầu tư lo ngại về núi nợ ngày càng lớn. Ngay cả Đức, quốc gia vốn thận trọng với mức nợ thấp hơn nhiều, cũng đang lên kế hoạch tăng phát hành trái phiếu Bund (trái phiếu chính phủ Đức).
Ở Nhật Bản, nơi chính sách tiền tệ siêu nới lỏng của ngân hàng trung ương từng giữ lợi suất dài hạn dưới 1% trong nhiều năm, một đợt bán tháo khốc liệt đã đẩy lợi suất lên mức kỷ lục. Lợi suất trái phiếu chính phủ Nhật Bản kỳ hạn 30 năm hiện quanh mức 3%.
Các bộ trưởng tài chính vẫn có một số công cụ để xoay xở. Một số đã chuyển sang phát hành nhiều trái phiếu ngắn hạn hơn, nơi lợi suất chủ yếu phụ thuộc vào lãi suất chứ ít chịu tác động từ cung-cầu và lạm phát. Các ngân hàng trung ương cũng có thể chậm lại nhịp độ cắt giảm lượng phiếu tích lũy sau các cuộc khủng hoảng.
Tuy nhiên, theo các nhà quản lý quỹ, trừ khi tăng trưởng kinh tế bứt phá mạnh, cắt giảm chi tiêu quá mức là giải pháp bền vững duy nhất. Craig Inches, Trưởng bộ phận lãi suất và tiền mặt tại Royal London Asset Management, cho rằng vay mượn quá nhiều là nguyên nhân chính gây rối loạn thị trường trái phiếu dài hạn, buộc các Chính phủ phải đưa ra những quyết định cắt giảm chi phí khó khăn.
“Câu hỏi là, liệu các Chính phủ có đủ quyết tâm không?”.
Áp lực gia tăng trên thị trường trái phiếu dài hạn toàn cầu
Chi phí vay đã tăng đều đặn kể từ đại dịch COVID-19 khi lạm phát leo thang và các ngân hàng trung ương giảm mua vào. Tuy nhiên, đợt bán tháo gần đây tập trung mạnh vào trái phiếu dài hạn, khiến giá giảm nhanh hơn và lợi suất tăng mạnh hơn so với trái phiếu ngắn hạn.
Chênh lệch lợi suất giữa trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 2 năm và 30 năm đã lên khoảng 1 điểm phần trăm, là mức cao nhất trong 3 năm, với xu hướng tương tự ở các nơi khác. Nhiều nhà quản lý quỹ lớn đang đặt cược rằng đường cong lợi suất, thể hiện chi phí vay ở các kỳ hạn khác nhau, sẽ tiếp tục dốc lên.
Đây là vấn đề đối với các chính phủ, vốn phát hành trái phiếu ở nhiều kỳ hạn khác nhau không chỉ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư, mà còn để phân tán lịch đáo hạn và giảm rủi ro biến động lãi suất thị trường.
Ngay cả với các chiến lược quản lý như vậy, chi phí trả lãi nợ của nhóm các nước giàu OECD đã lên mức cao nhất kể từ ít nhất năm 2007. Ở nhiều trường hợp, chi phí lãi nợ còn vượt ngân sách các bộ lớn như quốc phòng hoặc giáo dục.
Các ngân hàng trung ương tại hầu hết các nền kinh tế lớn vẫn đang trên lộ trình cắt giảm lãi suất, giúp giữ ổn định lãi suất ngắn hạn. Tuy nhiên, họ ít có ảnh hưởng hơn đối với chi phí vay dài hạn. Ở đây, kỳ vọng lạm phát của nhà đầu tư, yếu tố có thể làm xói mòn lợi suất cố định của trái phiếu, và lo ngại về nguồn cung dư thừa cũng rất quan trọng.
Các chỉ số về phần bù kỳ hạn, tức phần tăng thêm để bù đắp cho rủi ro nắm giữ dài hơn, đang tăng lên. Phần lớn các nhà phân tích tin rằng lãi suất dài hạn sẽ còn tiếp tục tăng, được hỗ trợ bởi các khoản cược vào độ dốc của đường cong lợi suất của nhà đầu tư.
Giá trái phiếu Chính phủ cũng là chuẩn tham chiếu cho chi phí vay của doanh nghiệp, nên nếu có vấn đề nghiêm trọng ở đầu dài của đường cong lợi suất, chi phí vay của doanh nghiệp cũng sẽ bị ảnh hưởng.
“Lãi suất càng lên cao và ngân hàng trung ương càng ít kiểm soát được đầu dài, áp lực lên khu vực tư nhân càng lớn”, Mike Scott, Trưởng bộ phận trái phiếu lợi suất cao toàn cầu tại Man Group, nhận định.
Nhu cầu đối với trái phiếu Chính phủ dài hạn càng bị ảnh hưởng khi một số nhà đầu tư truyền thống rút lui. Tại Anh, các quỹ hưu trí doanh nghiệp (theo hướng đảm bảo lương hưu cố định cho nhân viên) giờ đây phần lớn đã ngừng tiếp nhận thành viên mới. Khi những thành viên hiện tại dần bước vào tuổi nghỉ hưu, nhu cầu nắm giữ trái phiếu dài hạn của các quỹ này cũng giảm mạnh. Thay vào đó, các quỹ phòng hộ đang dần "lấp chỗ trống" mà những nhà đầu tư truyền thống để lại.
Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở Nhật Bản, nơi thế hệ bùng nổ dân số sau chiến tranh đang già đi và không còn cần tích trữ trái phiếu dài hạn ở mức như trước, theo các nhà phân tích.
Điều này cộng hưởng với sự trở lại của lạm phát, tạo ra làn sóng bán tháo đẩy lợi suất trái phiếu Chính phủ Nhật Bản lên mức kỷ lục trong những tuần gần đây. Một trong những điểm tựa vững chắc nhất của thị trường trái phiếu dài hạn toàn cầu đang dần mất đi.
“Các Chính phủ trên khắp thế giới phát triển đang phát hành thêm nhiều trái phiếu đúng lúc điểm tựa JGB (trái phiếu chính phủ Nhật Bản) trở nên lung lay”, James Novotny, nhà quản lý đầu tư tại Jupiter Asset Management, nhận định.
Các nước xoay xở ra sao khi chi phí đi vay tăng mạnh?
Trước cuộc khủng hoảng cung-cầu trái phiếu dài hạn, các Chính phủ đang vội vã tìm kiếm những giải pháp tức thời.
Văn phòng Quản lý Nợ của Anh năm nay đã giảm quy mô phát hành trái phiếu dài hạn, với lý do “sức cầu suy yếu” đối với loại trái phiếu này và nhu cầu đảm bảo giá trị cho người nộp thuế.
Chênh lệch lợi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 30 năm và 2 năm
Tại Nhật Bản, chính phủ đã làm dấy lên đồn đoán về một động thái tương tự khi tham khảo ý kiến thị trường về kế hoạch phát hành tháng trước. Trước đây cũng từng có những biện pháp mạnh tay: năm 2001, Mỹ từng tạm dừng hoàn toàn việc phát hành trái phiếu 30 năm.
Ở Mỹ, bất chấp việc ông Bessent liên tục chỉ trích người tiền nhiệm Janet Yellen vì dựa nhiều vào phát hành trái phiếu ngắn hạn, ông cho biết bất kỳ động thái nào nhằm kéo dài kỳ hạn nợ sẽ “phụ thuộc vào tình hình” và thay vào đó gợi ý có thể tăng mua lại trái phiếu cũ.
Khả năng xoay xở của các quốc gia phụ thuộc vào cấu trúc kỳ hạn nợ hiện tại. Anh đang ở vị trí khá tốt, khi kỳ hạn trung bình của danh mục nợ là 14 năm.
Tuy nhiên, một số nhà đầu tư cảnh báo rằng rút ngắn kỳ hạn nợ khiến các quốc gia dễ bị rủi ro tái cấp vốn hơn, đặc điểm thường thấy ở các thị trường mới nổi. “[Điều này] không giải quyết được vấn đề cầu cơ bản, chỉ đơn giản là đẩy nó xuống phía ngắn hơn của đường cong”, Stitt của T Rowe nhận định.
Vẫn còn những công cụ khác. Các ngân hàng trung ương cũng có thể dừng hoặc giảm bán ra trái phiếu chính phủ tích lũy trong các chương trình khẩn cấp trước đây, tức là giảm tốc độ thắt chặt định lượng (QT) để đảo ngược nới lỏng định lượng (QE).
Barclays’ Moyeen Islam gần đây nhận định trong một báo cáo rằng “việc tạm dừng bán chủ động” của Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) có “nhiều ý nghĩa tích cực”, có thể giúp nâng giá trái phiếu và “mang lại tác động tích cực lớn cho triển vọng tài khóa”. Ngân hàng dự kiến sẽ công bố vào tháng 9 lượng trái phiếu sẽ bán ra trong năm tới như một phần của chương trình QT, dù trong thư gửi Bộ Tài chính tháng trước, Thống đốc BOE Andrew Bailey cho biết “không có bằng chứng nào cho thấy việc bán trái phiếu làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thị trường trên nhiều chỉ số tài chính”.
Các nhà hoạch định chính sách tiền tệ cũng ý thức rõ tác động của việc bán tháo trái phiếu dài hạn đến chính sách tiền tệ. Catherine Mann, thành viên Ủy ban thiết lập lãi suất của Ngân hàng Trung ương Anh, phát biểu gần đây rằng “điều quan trọng đối với nhà hoạch định chính sách tiền tệ là phải cân nhắc tác động tương hỗ giữa QT và quyết định lãi suất, nhất là khi hai công cụ này đang tác động theo hai hướng khác nhau”.
Bà cảnh báo rằng tác động thắt chặt các điều kiện tài chính của QT “không thể được bù đắp hoàn toàn” bằng việc cắt giảm lãi suất, và “cần cân nhắc kỹ lưỡng sự kết hợp các công cụ và tác động vĩ mô của chúng”.
Nợ công Mỹ leo thang
Lộ trình tài khóa của Mỹ, quốc gia vay nợ lớn nhất thế giới, sẽ đóng vai trò then chốt trong việc liệu thế giới có thể xử lý được núi trái phiếu dài hạn hay không.
Ngày 04/06, Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ cho biết rằng dự luật lớn và tuyệt đẹp (big & beautiful bill) do ông Trump khởi xướng sẽ kéo dài thâm hụt ngân sách và bổ sung 2.4 ngàn tỷ USD vào nợ công đến năm 2034.
Mỹ từ lâu được hưởng sự linh hoạt hơn các quốc gia khác trong quản lý tài khóa, nhờ vai trò trung tâm của đồng USD trong thương mại và tài chính toàn cầu, cũng như vị thế của trái phiếu kho bạc Mỹ là tài sản dự trữ của thế giới.
Hemingway từng mô tả con đường đến phá sản là “từ từ, rồi đột ngột”. Mỹ có khả năng sẽ ở phần “từ từ” ... mãi mãi.
Tuy nhiên, các nhà phân tích ngày càng cảnh báo rằng việc tăng tốc phát hành trái phiếu dài hạn của Mỹ, đúng lúc nhà đầu tư toàn cầu có dấu hiệu đa dạng hóa khỏi tài sản bằng USD, có thể tạo ra điều kiện cho một sự cố.
Mỹ đã mất xếp hạng tín nhiệm AAA cuối cùng vào tháng 5 khi Moody’s cảnh báo về diễn biến nợ xấu đi. Thị trường vốn đã căng thẳng sau đợt bán tháo do chiến tranh thương mại hồi tháng 4 và những chỉ trích của Trump nhắm vào Chủ tịch Fed Jay Powell, làm lung lay niềm tin của các nhà đầu tư lớn vào tính độc lập của Fed và khả năng kiểm soát lạm phát dài hạn.
Dự luật này “như đổ thêm dầu vào lửa” vấn đề nợ của Mỹ, theo April LaRusse, trưởng bộ phận chuyên gia đầu tư tại Insight Investment, một nhà đầu tư trái phiếu lớn. Bà cho rằng “tác động lên thâm hụt ngân sách trông rất tệ”, “ngay cả khi đưa ra những giả định lạc quan” về nguồn thu từ thuế quan.
Một mối lo ngại là diễn biến nợ xấu đi ở một số quốc gia khiến họ kém khả năng chống chọi với các cú sốc bất ngờ hoặc quyết định chính trị sai lầm trong tương lai. “Ở một số quốc gia, nợ vẫn bền vững nhưng dễ tổn thương trước các cú sốc mới”, Peder Beck-Friis, nhà kinh tế tại Pimco, nhận định. Ông lấy Anh và Ý làm ví dụ.
Ở các nước khác, như Mỹ và Pháp - vốn không có ngân sách cân bằng từ năm 1974 - nợ có vẻ “rất không bền vững nếu tiếp tục con đường hiện tại” mà không có sự điều chỉnh nào, ông lập luận.
Một số ý kiến cho rằng Mỹ và các quốc gia khác đang ở giai đoạn đầu của một cuộc khủng hoảng nợ bền vững. Nhà đầu tư kỳ cựu Ray Dalio cảnh báo về một “vòng xoáy tử thần” khi chi phí vay bị đẩy lên cao trong một chu kỳ tự củng cố.
Tuy nhiên, phần lớn nhà đầu tư tin rằng Mỹ có thể tránh được cái bẫy này, một phần nhờ áp lực từ thị trường trái phiếu. “Hemingway mô tả con đường đến phá sản là ‘từ từ, rồi đột ngột’”, Steve Englander của Standard Chartered viết trong một báo cáo gần đây. “Theo chúng tôi, Mỹ có khả năng sẽ ở phần ‘từ từ’ trong thời gian dài, có lẽ là mãi mãi”.
Một lựa chọn khác là các quốc gia làm xói mòn giá trị thực của nợ bằng cách chấp nhận mức lạm phát cao hơn bình thường. “Rủi ro vỡ nợ trên thực tế thông qua lạm phát có thể trở thành rủi ro thực sự”, Englander cảnh báo.
Nguy cơ là chi tiêu công và nhu cầu duy trì thị trường nợ ổn định sẽ trở thành lực lượng chi phối chính sách tiền tệ, thay vì các yếu tố khác như tăng trưởng kinh tế hay lạm phát.
“Điều tôi thực sự lo ngại là chúng ta sẽ rơi vào câu chuyện ‘chi phối tài khóa’”, Bill Campbell, nhà quản lý quỹ tại DoubleLine Capital, nhận định, trong đó vay mượn và chi tiêu công tăng lên “lấn át” đầu tư tư nhân. Ông cảnh báo điều này có thể dẫn đến “quỹ đạo tăng trưởng thấp vĩnh viễn ... một tình trạng trì trệ dài hạn với tăng trưởng thấp và gánh nặng nợ khổng lồ”.
Với nhiều nhà đầu tư, tác động kinh tế tiêu cực từ việc tích lũy nợ công kéo dài là mối lo lớn hơn nguy cơ vỡ nợ trái phiếu chính phủ ở một nền kinh tế lớn.
“Chúng tôi không cho rằng kịch bản vỡ tung nợ là cơ sở chính”, Jamie Patton, quản lý quỹ trái phiếu tại TCW, nói. “[Nhưng] với tư cách là người nộp thuế và công dân Mỹ, tôi thực sự lo lắng”, bà nói thêm, mô tả Quốc hội ngày càng “kém khả năng” đưa ra các quyết định về thuế và chi tiêu. “Chúng ta đang đối mặt với một vấn đề lớn”.
Quốc An (Theo FT)
FILI - 19:00:00 13/06/2025


交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。