行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值












VIP跟單
所有跟單
所有比賽



法國貿易帳 (季調後) (10月)公:--
預: --
歐元區就業人數年增率 (季調後) (第三季度)公:--
預: --
加拿大兼職就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大失業率 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大全職就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大就業參與率 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
美國PCE物價指數月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國個人收入月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國核心PCE物價指數月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國PCE物價指數年增率 (季調後) (9月)公:--
預: --
前: --
美國核心PCE物價指數年增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國個人支出月增率 (季調後) (9月)公:--
預: --
美國五至十年期通膨率預期 (12月)公:--
預: --
前: --
美國實際個人消費支出月增率 (9月)公:--
預: --
美國當週鑽井總數公:--
預: --
前: --
美國當周石油鑽井總數公:--
預: --
前: --
美國消費信貸 (季調後) (10月)公:--
預: --
中國大陸外匯存底 (11月)公:--
預: --
前: --
日本貿易帳 (10月)公:--
預: --
前: --
日本名義GDP季增率修正值 (第三季度)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額年增率 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸出口額 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸貿易帳 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸出口額年增率 (美元) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額年增率 (美元) (11月)公:--
預: --
前: --
德國工業產出月增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
歐元區Sentix投資者信心指數 (12月)公:--
預: --
前: --
加拿大全國經濟信心指數公:--
預: --
前: --
英國BRC同店零售銷售年增率 (11月)--
預: --
前: --
英國BRC總體零售銷售年增率 (11月)--
預: --
前: --
澳洲隔夜拆借利率--
預: --
前: --
澳洲央行利率決議
澳洲聯儲主席布洛克召開貨幣政策記者會
德國出口月率 (季調後) (10月)--
預: --
前: --
美國NFIB小型企業信心指數 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
墨西哥12個月通膨年增率 (CPI) (11月)--
預: --
前: --
墨西哥核心消費者物價指數 (CPI) 年增率 (11月)--
預: --
前: --
墨西哥PPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
美國當周紅皮書同店零售銷售指數年增率--
預: --
前: --
美國JOLTS職位空缺 (季調後) (10月)--
預: --
前: --
中國大陸M1貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸M0貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸M2貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
美國EIA當年短期前景原油產量預期 (12月)--
預: --
前: --
美國EIA次年天然氣產量預期 (12月)--
預: --
前: --
美國EIA次年短期原油產量預期 (12月)--
預: --
前: --
EIA月度短期能源展望報告
美國當週API汽油庫存--
預: --
前: --
美國當週API庫欣原油庫存--
預: --
前: --
美國當週API原油庫存--
預: --
前: --
美國當週API精煉油庫存--
預: --
前: --
韓國失業率 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
日本路透短觀非製造業景氣判斷指數 (12月)--
預: --
前: --
日本路透短觀製造業景氣判斷指數 (12月)--
預: --
前: --
日本國內企業商品價格指數月增率 (11月)--
預: --
前: --
日本國內企業商品價格指數年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸PPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸CPI月增率 (11月)--
預: --
前: --


無匹配數據

Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam dốc sức đầu tư vào sản xuất xanh, một nghịch lý đang khiến họ có nguy cơ "thua trắng": hệ thống logistics lạc hậu.
Với 85% phát thải ngành vận tải đến từ đường bộ và dự báo lượng phát thải sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030, những nỗ lực giảm carbon tại nhà máy đang bị suy giảm nghiêm trọng[1]. Thực trạng này không chỉ đe dọa cam kết Net Zero 2050 mà còn đặt ra câu hỏi cấp bách: phải chăng Việt Nam đang bỏ quên mắt xích then chốt nhất trong cuộc đua bền vững?
Nghịch lý “Nhà máy xanh, Con đường xám”
Bức tranh tổng thể về phát thải từ logistics cho thấy một thực tế đáng báo động, theo đánh giá của Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), ngành logistics toàn cầu đóng góp khoảng 7-8% tổng lượng phát thải CO2. Tại Việt Nam, con số của World Bank cho thấy hoạt động vận tải phát thải trung bình hơn 50 triệu tấn CO2 mỗi năm[2], và theo dự báo mới nhất của Bộ Giao thông Vận tải, con số này có nguy cơ tăng vọt lên gần 89.1 triệu tấn vào năm 2030 nếu không có hành động quyết liệt[3]. Nếu không có sự thay đổi đột phá, những khoản đầu tư khổng lồ vào nhà máy xanh có nguy cơ không đạt được hiệu quả như kỳ vọng.
Bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư mạnh mẽ vào sản xuất xanh là không thể phủ nhận. Theo World Bank, Việt Nam đã có khoảng 1.7 triệu việc làm xanh và con số này dự kiến tăng mạnh khi Chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình mở rộng các hành động ứng phó biến đổi khí hậu.
Từ năm 2019 đến 2023, công suất điện mặt trời lắp đặt của Việt Nam đã tăng vọt từ 4.5GW lên hơn 17GW nhờ các ưu đãi chính sách và đầu tư tư nhân. Kế hoạch Phát triển Điện lực quốc gia lần thứ 8 (PDP8) hiện nhắm đến 73GW điện mặt trời vào năm 2030, tăng hơn năm lần so với mục tiêu 12.8GW trước đó[4].
Tuy nhiên, khi phân tích theo khung phát thải Scope 1, 2 và 3 theo Giao thức khí nhà kính, điểm yếu rõ ràng nằm ở Scope 3 - nơi logistics đóng vai trò chính nhưng thường bị bỏ qua. Theo nghiên cứu của DHL, phát thải Scope 3 chiếm từ 75% đến hơn 90% tổng dấu chân carbon của một tổ chức[5]. Đối với ngành logistics, sự phức tạp này càng trở nên đáng lo ngại do sự tham gia của các hoạt động đa dạng, từ hoạt động của nhà cung cấp đến giao hàng cho khách hàng.
Trong Chiến lược Tăng trưởng Xanh Quốc gia giai đoạn 2021-2030 với tầm nhìn đến 2050, logistics được xác định là một trong 18 chủ đề trọng yếu. Quyết định 876/QĐ-TTg về chương trình hành động chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải CO2 và metan của ngành giao thông vận tải nhằm phát triển hệ thống giao thông xanh để đạt được mức phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào năm 2050. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chỉ tập trung vào giảm phát thải tại nhà máy (Scope 1 & 2) là chưa đủ.
Theo Bộ GTVT, ngành vận tải Việt Nam đặt mục tiêu giảm 5.9% phát thải khí nhà kính so với kịch bản Business-as-Usual (BAU) vào năm 2030, tương đương với việc giảm tích lũy 45.62 triệu tấn CO2 trong giai đoạn 2021-2030. Mốc giảm phát thải bao gồm 3.4 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2025 và 10.61 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2030. Không có các biện pháp giảm thiểu bổ sung, phát thải từ ngành vận tải dự kiến tăng đáng kể từ 33.2 triệu tấn năm 2014 lên 89.1 triệu tấn năm 2030[6].
Tầm quan trọng của logistics xanh trong cam kết của Việt Nam tại các hội nghị COP không thể phủ nhận. Tại COP27, Việt Nam đã cam kết giảm 30% phát thải methane và chấm dứt nạn phá rừng vào năm 2030[7]. Việt Nam cũng cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Báo cáo ESG thiếu sót do chỉ tập trung vào sản xuất mà bỏ qua logistics có thể dẫn đến việc không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế ngày càng nghiêm ngặt về tính minh bạch trong báo cáo phát thải.
Đo lường 'Dấu chân carbon' của chuỗi cung ứng
Phân tích các nguồn phát thải chính trong hoạt động logistics tại Việt Nam cho thấy sự phụ thuộc quá mức vào vận tải đường bộ. Theo World Bank, vận tải hàng hóa bằng xe tải chiếm 77% tổng lượng hàng hóa tại Việt Nam[8], trong khi vận tải đường bộ chiếm 85% tổng phát thải từ hoạt động vận tải[9]. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỷ lệ xe chạy rỗng chiều về có thể lên tới 70%, tạo ra lãng phí năng lượng và gia tăng phát thải không cần thiết[10].
Trong lĩnh vực nông sản, tình trạng tổn thất sau thu hoạch và hệ thống chuỗi lạnh chưa phát triển đồng bộ đang tạo ra những rò rỉ phát thải đáng kể. Theo nghiên cứu về kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam, trong nuôi trồng thủy sản, tỷ lệ thu gom phụ phẩm đạt hơn 90%[11], nhưng phần lớn được sử dụng để chiết xuất các hợp chất sinh học và sản xuất phân bón hữu cơ. Tuy nhiên, việc vận chuyển và bảo quản các sản phẩm này vẫn phụ thuộc chủ yếu vào đường bộ với đội xe cũ kỹ.
Ngành dệt may, một trong những ngành xuất khẩu trọng yếu của Việt Nam, đối mặt với thách thức lớn trong việc quản lý phát thải từ vận tải quốc tế. Theo World Bank, 71% các doanh nghiệp may mặc và 74% doanh nghiệp điện tử hoạt động ở những khu vực có nguy cơ cao về căng thẳng nhiệt, khiến hơn 1.3 triệu nhân viên dễ bị tổn thương[12]. Điều này đòi hỏi việc sử dụng thêm năng lượng cho làm mát, tăng gián tiếp phát thải từ logistics.
Ngành điện tử, vận tải hàng không chiếm tỷ trọng cao hơn do yêu cầu về tốc độ giao hàng, nhưng đây lại là phương thức vận tải có mức phát thải cao nhất. FMCG (Fast-Moving Consumer Goods) đối mặt với thách thức từ giao hàng chặng cuối, đặc biệt khi thương mại điện tử phát triển mạnh. Theo thống kê, thị trường bán lẻ thương mại điện tử Việt Nam năm 2024 đạt 25 tỷ USD, tăng 20% so với năm trước[13].
Về định lượng mức độ phát thải của ngành logistics, ngành giao thông vận tải đóng góp đáng kể vào tổng phát thải quốc gia. Theo Tổng cục Thống kê, các ngành vận tải và logistics đóng góp khoảng 4.8% GDP của đất nước giai đoạn 2015-2021, tỷ lệ này được ghi nhận ở mức 4.65% vào năm 2022 với hơn 80 ngàn doanh nghiệp và hơn 1.3 triệu lao động[14].
Vai trò của công nghệ trong việc đo lường và quản lý phát thải logistics đang được chú trọng. Các hệ thống quản lý vận tải (TMS), tối ưu hóa lộ trình và nền tảng tính toán carbon đang được triển khai rộng rãi hơn.
Những rào cản kìm hãm logistics xanh
Phân tích các "nút thắt" về hạ tầng cho thấy kết nối đa phương thức (đường bộ - đường sắt - đường thủy) yếu kém là một trong những trở ngại lớn nhất.
World Bank đã phê duyệt khoản tín dụng 107 triệu USD để cải thiện năng lực, hiệu quả và an toàn của đường thủy nội địa ở miền Nam Việt Nam. Dự án Phát triển Hành lang đường thủy và logistics miền Nam này nhằm tăng khối lượng hàng hóa và giảm thời gian di chuyển dọc theo các hành lang Đông-Tây và Bắc-Nam quan trọng. Qua đó sẽ giảm khoảng cách vận chuyển giữa cảng lớn nhất Đồng bằng sông Cửu Long tại Cần Thơ và cảng lớn nhất về khối lượng ở Việt Nam tại TPHCM khoảng 30%[15].
Sự chuyển đổi nhiều hàng hóa hơn sang đường thủy nội địa là rất quan trọng để giảm phát thải của ngành giao thông Việt Nam. Vận tải đường bộ bằng xe tải, chiếm khoảng 80% phát thải khí nhà kính của ngành giao thông vận tải tại Việt Nam[16], phát thải gấp 6 lần lượng CO2 so với đường thủy.
Thiếu hụt các chính sách hỗ trợ cụ thể là một rào cản lớn khác. Theo VLA, mặc dù nhận thức về logistics xanh đang tăng lên, nhưng hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa cam kết thực hiện các hành động môi trường đáng kể. Hạn chế về vốn và nhận thức đặc biệt nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Chỉ một phần nhỏ trong số hơn 34,000 công ty logistics trong cả nước đã tích cực thực hiện các sáng kiến chuyển đổi xanh[17]. Chi phí đầu tư ban đầu cho phương tiện và hạ tầng xanh vẫn còn cao, đặc biệt với doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu tài sản thế chấp hoặc dòng tiền để tài trợ cho các khoản đầu tư thích ứng.
Khung chính sách thúc đẩy logistics xanh cho thấy khoảng cách lớn giữa Việt Nam và các nền kinh tế phát triển. Gói "Fit for 55" của EU nhằm giảm ít nhất 55% phát thải ròng khí nhà kính vào năm 2030 so với mức năm 1990, bao gồm các biện pháp nghiêm ngặt đối với ngành giao thông vận tải[18].
Trung Quốc đã triển khai Kế hoạch logistics hiện đại với đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng đa phương thức và công nghệ xanh. Trong Việt Nam mặc dù có các chính sách định hướng tổng thể, việc thực thi và cơ chế hỗ trợ cụ thể vẫn còn hạn chế.
Theo báo cáo của OECD, các rào cản chính bao gồm sự không chắc chắn về quy định, rủi ro tài chính, nhận thức và sự tham gia của khu vực tư nhân. ADB cũng đã công bố gói tài trợ khí hậu 135 triệu USD để hỗ trợ di chuyển điện ở Việt Nam, nhưng quy mô này vẫn còn khiêm tốn so với nhu cầu thực tế[19].
Đồng bộ hóa chuỗi giá trị từ sản xuất xanh đến logistics xanh
Theo World Bank, cần đảm bảo sự phối hợp liên Chính phủ hiệu quả để điều phối quy hoạch đầu tư công giữa các bộ và tỉnh, đảm bảo các dự án hạ tầng, thích ứng biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế được đồng bộ hóa[20].
Giải pháp chiến lược cho doanh nghiệp bao gồm xây dựng lộ trình chuyển đổi đội xe một cách có hệ thống. Tập đoàn Macstar đang dẫn đầu trong vận tải đường thủy nội địa, sử dụng sà lan kết nối Hải Phòng với các tỉnh Bắc Trung Bộ, giúp giảm 70% lượng phát thải so với vận tải đường bộ[21]. Công ty cũng đang đầu tư vào kho thông minh được cung cấp bởi năng lượng tái tạo và khám phá các nỗ lực tái trồng rừng để tạo ra tín chỉ carbon.
Ứng dụng công nghệ số để tối ưu hóa đang được các doanh nghiệp tiên phong triển khai. LEX Vietnam (trước đây là Lazada Logistics) đã hoàn toàn áp dụng các công nghệ tiên tiến như AI, dữ liệu lớn, cảm biến IoT và hệ thống quản lý chuỗi cung ứng để tự động hóa quy trình và nâng cao trải nghiệm người dùng. Hệ thống AI của họ được tích hợp trong các giai đoạn từ dự báo đơn hàng và tối ưu hóa tuyến giao hàng đến quản lý kho và phân tích hành vi người tiêu dùng.
Thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ trong logistics thông qua các nền tảng số để giảm tỷ lệ xe chạy rỗng đang được đẩy mạnh. Mô hình chuyển từ sản phẩm sang dịch vụ, chẳng hạn như thuê pin và mô hình chia sẻ, đang trở nên phổ biến tại Việt Nam.
Cơ hội từ tài chính xanh được mở rộng đáng kể. ADB dự định huy động nguồn lực lên tới 3 tỷ USD cho khoảng 23 dự án tại Việt Nam giai đoạn 2023-2026. Hỗ trợ tích lũy của ADB cho Việt Nam trong 30 năm qua đã lên tới khoảng 18 tỷ USD. ADB cũng đã cam kết 2.1 tỷ USD cho Việt Nam để thực hiện Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) và Cơ chế chuyển đổi năng lượng (ETM)[22].
Vai trò của các định chế tài chính quốc tế trong việc hỗ trợ phát triển logistics bền vững không thể phủ nhận. EXIM Bank của Mỹ đã ký thỏa thuận nhớ 500 triệu USD với Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) để xác định các dự án hạ tầng và năng lượng tái tạo tiềm năng nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh của Việt Nam[23].
[1] https://en.diendandoanhnghiep.vn/green-transformation-enhances-competitiveness-fornbsp-vietnamese-logistics-firms-n43417.html
[2] https://en.diendandoanhnghiep.vn/green-transformation-enhances-competitiveness-fornbsp-vietnamese-logistics-firms-n43417.html
[3] https://www.ndctransportinitiativeforasia.org/news/vietnam-new-emission-reduction-plan-decision1191
[4] https://documents1.worldbank.org/curated/en/099051625143012802/pdf/P176996-37953242-ccab-4fd4-b9da-7178f234adfb.pdf
[5] https://www.dhl.com/discover/en-vn/ship-with-dhl/services/how-dhl-is-reducing-scope-3-emissions-in-vietnam-and-apac
[6] https://www.ndctransportinitiativeforasia.org/news/vietnam-new-emission-reduction-plan-decision1191
[7] https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/overview
[8] https://documents1.worldbank.org/curated/en/165301554201962827/pdf/Strengthening-Vietnam-s-Trucking-Sector-Towards-Lower-Logistics-Costs-and-Greenhouse-Gas-Emissions.pdf
[9] https://vietnamnet.vn/en/vietnam-carrying-out-transport-transformation-to-reduce-emissions-573114.html
[10] https://documents1.worldbank.org/curated/en/165301554201962827/pdf/Strengthening-Vietnam-s-Trucking-Sector-Towards-Lower-Logistics-Costs-and-Greenhouse-Gas-Emissions.pdf
[11] https://www.eria.org/uploads/media/Books/2023-VietNam-2045/21_ch.17-Circular-Economy.pdf
[12] https://documents1.worldbank.org/curated/en/099051625143012802/pdf/P176996-37953242-ccab-4fd4-b9da-7178f234adfb.pdf
[13] https://en.diendandoanhnghiep.vn/green-transformation-enhances-competitiveness-fornbsp-vietnamese-logistics-firms-n43417.html
[14] https://www.undp.org/vietnam/speeches/final-workshop-green-job-assessment-road-transport-sector
[15] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2024/06/21/new-world-bank-program-boosts-sustainable-transport-infrastructure-for-vital-viet-nam-waterways
[16] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2024/06/21/new-world-bank-program-boosts-sustainable-transport-infrastructure-for-vital-viet-nam-waterways
[17] https://vli.edu.vn/en/xanh-hoa-hoat-dong-dich-vu-logistics/
[18] https://co2-iq.com/en/eu-climate-targets-2030
[19] https://www.vingroup.net/en/news/detail/2653/adb-leads-135-million-climate-financing-package-to-support-electric-mobility-in-vietnam
[20] http://vepg.vn/wp-content/uploads/2022/07/CCDR-Full-report_01.07_FINAL-1.pdf
[21] https://en.vneconomy.vn/logistics-sector-to-go-digital-and-green.htm
[22] https://en.vneconomy.vn/towards-a-green-economy.htm
[23] https://vneconomy.vn/techconnect/towards-a-green-economy.htm
Nguyễn Nhiều Lộc
FILI - 09:00:00 13/10/2025
Tham vọng đưa TPHCM thành trung tâm hàng hải quốc tế không còn là giấc mơ xa vời. Các chuyên gia nhận định Việt Nam hội đủ điều kiện để bứt phá trong vòng 10-15 năm tới nếu có chiến lược đúng đắn.
“Giấc mơ của chúng tôi là xây dựng một trung tâm hàng hải đúng nghĩa như Singapore hay Hồng Kông. Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng để hiện thực hóa điều đó”, ông Phạm Quốc Long - Phó Tổng Giám đốc Gemadept, người có gần 40 năm gắn bó với ngành, chia sẻ tại phiên họp chuyên đề Ủy ban II.
Ông Long nhấn mạnh, thời điểm hiện nay đã “chín mùi” để thực hiện mục tiêu này, khi cạnh tranh địa chính trị tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo ra cơ hội hiếm có cho Việt Nam. TPHCM cùng Vũng Tàu và Bình Dương đã hình thành siêu đô thị 18 triệu dân, đóng góp gần 25% GDP cả nước, xử lý khoảng 30 triệu TEU container và gần 800 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn ở thế “nhập siêu logistics” khi gần như toàn bộ hàng hóa xuất nhập khẩu do hãng tàu nước ngoài vận chuyển, khiến chi phí logistics chiếm 16-17% GDP nhưng đóng góp cho GDP chỉ 4-5%.
Đồng quan điểm, ông Phạm Anh Tuấn - Tổng Giám đốc CTCP Tư vấn Thiết kế Cảng - Kỹ thuật biển (Portcoast) nhận định Việt Nam hoàn toàn có khả năng vươn lên thành trung tâm hàng hải quốc tế. Ông dẫn chứng, riêng khu vực TPHCM và Cái Mép - Thị Vải đã chiếm hơn 30% tổng lượng hàng hóa qua cảng biển cả nước, trong đó container chiếm hơn 70%. Quy hoạch đã được phê duyệt cho phép tổng chiều dài cầu bến tại khu vực này đạt khoảng 23km, gần tương đương Singapore, với công suất tối đa 50 triệu TEU/năm.
“Nói như vậy để thấy tính khả thi và mức độ sẵn sàng rất cao cho việc hình thành trung tâm hàng hải quốc tế, khi hàng loạt yếu tố thuận lợi đã hội tụ”, ông nhấn mạnh.
Ông Tuấn chỉ ra ít nhất 6 yếu tố then chốt mà Việt Nam đã có hoặc đang dần hoàn thiện: quy mô cầu bến lớn; hạ tầng luồng, neo đậu và hoa tiêu đầy đủ; trung tâm logistics trong quy hoạch gắn với khu thương mại tự do; hạ tầng đa phương thức gồm đường biển, đường bộ, đường sắt và thủy nội địa; các dịch vụ thương mại, tài chính và pháp lý phục vụ ngành hàng hải; cùng hệ thống đào tạo, sửa chữa và hoa tiêu. Điểm còn thiếu là cơ sở cung ứng nhiên liệu cho tàu biển, bao gồm xăng dầu và năng lượng sạch trong tương lai, là mắt xích quan trọng để hoàn thiện hệ sinh thái cảng quốc tế.
Theo Tổng Giám đốc Portcoast, để trung tâm hàng hải vận hành hiệu quả, cần cơ chế quản lý hiện đại. Từ 1 thập kỷ trước, Portcoast đã đề xuất mô hình Port Authority thay cho “chính quyền cảng”, phân quyền mạnh mẽ cho địa phương quản lý, trong khi Trung ương giữ vai trò điều phối tổng thể. Đây là kinh nghiệm quốc tế đáng xem xét áp dụng tại Việt Nam. Ông cũng khẳng định việc doanh nghiệp tham gia ngay từ đầu là rất cần thiết.
“Thực tế, khi lập quy hoạch khu vực này (Cái Mép - Thị Vải), chúng tôi đã chủ động kết nối với các doanh nghiệp hàng hải và logistics. Ý kiến của họ là cơ sở đáng tin cậy để xác định nhu cầu, quy mô và tiến trình của quy hoạch, giúp kế hoạch sát thực tế và khả thi hơn”, ông Phạm Anh Tuấn chia sẻ.
Bày tỏ quan điểm tương tự, ông Đặng Vũ Thành, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) kiêm Tổng Giám đốc Sotrans, cho rằng trung tâm hàng hải quốc tế là “ước mơ của cả ngành logistics” và cần rút kinh nghiệm từ những quy hoạch “đẹp trên giấy nhưng khó triển khai”, bằng cách mời doanh nghiệp tham gia ngay từ giai đoạn lập kế hoạch và thí điểm dự án.
Các chuyên gia tại phiên họp cũng đồng tình về việc áp dụng mô hình cơ quan quản lý cảng chuyên biệt (Port Authority) theo kinh nghiệm quốc tế là gợi ý đáng tham khảo. Để trở thành trung tâm hàng hải quốc tế, cảng cần "mở" và được quản lý thống nhất, với quyền ban hành các ưu đãi kịp thời nhằm thu hút hãng tàu lớn. Hiện nay, các cảng vẫn thuộc quản lý của nhiều bộ, ngành, trong khi UBND TPHCM chỉ điều phối chung, nên các chính sách cụ thể như miễn thuế 2-3 năm cho hãng tàu cam kết tăng sản lượng vẫn chưa được triển khai.

Để hiện thực hóa mục tiêu, các chuyên gia đề xuất 3 nhóm giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất, quy hoạch tổng thể. Các cảng cần tích hợp thành hệ thống đồng bộ với hạ tầng dùng chung, thay vì manh mún như hiện nay. Khoản đầu tư dự kiến 10 tỷ USD trong 5-10 năm tới có thể tạo hơn 20,000 việc làm trực tiếp. Song song, TPHCM nên tận dụng lợi thế từ khu thương mại tự do và trung tâm tài chính đang xây dựng để gia tăng sức hút.
Thứ hai, cơ chế chính sách. Việt Nam cần hình thành cơ quan quản lý cảng biển thống nhất, có thẩm quyền ban hành ưu đãi cạnh tranh như miễn thuế 2-3 năm cho hãng tàu quốc tế. Một số ý kiến còn đề xuất định vị Việt Nam là “quốc gia thương mại tự do” nhằm quảng bá hình ảnh cởi mở, thu hút đầu tư và dịch chuyển chuỗi cung ứng.
Thứ ba, công nghệ và kết nối. Việc xây dựng hệ thống Port Community System (PCS), nền tảng dữ liệu dùng chung cho toàn bộ hoạt động cảng biển, được xem là ưu tiên hàng đầu. “Đây sẽ là cơ sở để hình thành cảng mở, kết nối công - tư, quản lý tập trung và tối ưu năng suất”, ông Nguyễn Thanh Bình - Tổng Giám đốc Gemadept nêu quan điểm. Ngoài ra, cần phát triển vận tải thủy nội địa - hiện mới chiếm 20% hàng hóa so với 79% đường bộ. Một sà lan 200-300 tấn có thể thay thế 300 xe tải, vừa tiết kiệm chi phí vừa giảm ô nhiễm.
Để đạt hiệu quả, trước tiên phải tháo gỡ điểm nghẽn về tĩnh không cầu và luồng tuyến. Kênh Hà Nam ở Hải Phòng cần mở rộng cho tàu đi hai chiều, trong khi nhiều cây cầu ở miền Bắc và miền Nam quá thấp, hạn chế sà lan lớn lưu thông. Chính phủ đã bố trí 6.48 ngàn tỷ đồng giai đoạn 2026-2030 cho hạ tầng thủy nội địa, và nếu các dự án trọng điểm được triển khai sớm, chi phí logistics có thể giảm 10%.
Một số chuyên gia cũng nhấn mạnh tính hiệu quả đầu tư. Ông Trần Khánh Hoàng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cảng biển Việt Nam (VPA), cho rằng nhiều dự án như cảng Trần Đề chưa thật sự cần thiết khi sản lượng chỉ vài trăm ngàn TEU/năm, trong khi Cát Lái đã vượt 5 triệu TEU. Ông kiến nghị tập trung vốn cho đường thủy, cao tốc và đường sắt tốc độ cao để nâng năng lực vận tải.
Các chuyên gia đồng thuận: quy hoạch dài hạn, cơ chế mở, công nghệ hiện đại và phối hợp công - tư chặt chẽ là yếu tố quyết định. Với quyết tâm chính trị, sự đồng hành của doanh nghiệp và nguồn lực đầu tư đủ lớn, tham vọng đưa TPHCM thành trung tâm hàng hải quốc tế hoàn toàn khả thi trong thập kỷ tới.
Tử Kính
FILI - 11:45:50 03/10/2025



Từ chậm nộp hồ sơ, khai sai dẫn đến bị truy thu hàng trăm triệu đồng, cho đến sử dụng hóa đơn không hợp pháp, nhiều doanh nghiệp trên sàn chứng khoán vừa nhận quyết định xử phạt từ cơ quan thuế.
Phạt do chậm nộp hồ sơ khai thuế
CTCP Bảo vệ Thực vật Sài Gòn nhận quyết định ngày 08/09 của Cục Thuế TPHCM với tổng tiền phạt 7.15 triệu đồng, kèm yêu cầu nộp thêm tiền chậm nộp. Doanh nghiệp bị xác định nộp hồ sơ khai thuế thu nhập cá nhân trễ từ 31-60 ngày đối với kỳ tháng 7/2023, và chậm từ 1-30 ngày đối với các tờ khai tháng 8/2023.
Cục Thuế nêu rõ tình tiết tăng nặng do vi phạm nhiều lần. Ngay sau công bố, cổ phiếu SPC giảm giá kịch sàn xuống 9,600 đồng/cp vào ngày 19/09, hiện vẫn trong diện cảnh báo.
Ngày 12/09, Cục Thuế TPHCM cũng xử phạt CTCP Transimex 3.85 triệu đồng vì chậm nộp hồ sơ thuế nhà thầu nước ngoài. Trước đó, ngày 27/08, Transimex cũng bị cơ quan này xử phạt do khai sai nhiều kỳ thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Tổng số tiền thuế truy thu, tiền phạt và tiền chậm nộp gần 439 triệu đồng.
Khai sai dẫn đến truy thu thuế lớn
CTCP Đầu tư Cao su Đắk Lắk ngày 15/09 nhận quyết định xử phạt của Cục Thuế tỉnh Đắk Lắk với tổng số tiền gần 144 triệu đồng. Doanh nghiệp bị xác định khai sai khiến tăng số thuế GTGT được hoàn giai đoạn từ tháng 1-4/2024 và khai sai dẫn đến thiếu thuế TNDN.
Cùng ngày, Cục Thuế tỉnh cũng ra quyết định thu hồi hoàn thuế với DRI gần 952,000 đồng do phải phân bổ lại thuế GTGT theo quy định.
CTCP Đầu tư Xây dựng và Vật liệu Đồng Nai công bố quyết định ngày 27/06 của Chi cục Thuế khu vực XV với tổng số tiền truy thu, phạt và chậm nộp hơn 571 triệu đồng. Công ty bị xác định khai sai làm thiếu thuế GTGT và thuế TNDN các năm 2020, 2022, đồng thời bị yêu cầu giảm lỗ năm 2022 hơn 1.3 tỷ đồng.
Sử dụng hóa đơn không hợp pháp
CTCP Dược phẩm Trung ương CPC1 (UPCoM: DP1) theo quyết định ngày 11/09 phải nộp gần 156 triệu đồng, gồm tiền truy thu, phạt và chậm nộp thuế. Cơ Chi cục Thuế doanh nghiệp cho biết DP1 đã sử dụng hóa đơn không hợp pháp để hạch toán, làm giảm số thuế phải nộp. Tuy nhiên, lỗi vi phạm sử dụng hóa đơn không hợp pháp được xác định thuộc về bên bán hàng.
Thế Mạnh
FILI - 16:28:00 19/09/2025
Sau năm lãi kỷ lục, Tổng Công ty Đông Bắc (DBCC) ghi nhận lợi nhuận sau thuế tăng 16% trong nửa đầu 2025, đồng thời giảm nợ và mua lại trước hạn 300 tỷ đồng trái phiếu.
Tổng công ty Đông Bắc công bố tình hình tài chính nửa đầu 2025 với lợi nhuận sau thuế hơn 433 tỷ đồng, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này nối tiếp đà tăng trưởng năm 2024, khi công ty đạt mức lãi kỷ lục 614 tỷ đồng.
KQKD DBCC từ 2014 - 2024
Tính đến cuối tháng 6, vốn chủ sở hữu đạt gần 2,532 tỷ đồng, tăng 19% so với đầu năm, riêng lợi nhuận sau thuế chưa phân phối gần 436 tỷ đồng.
Nợ phải trả giảm 8%, còn hơn 11,596 tỷ đồng. Trong đó, hơn phân nửa là nợ vay ngân hàng, gần 5,090 tỷ đồng nợ khác và khoảng 400 tỷ đồng dư nợ trái phiếu. Đáng chú ý, công ty đã chi hơn 20 tỷ đồng để trả lãi cho trái chủ trong nửa đầu năm.
Nguồn vốn DBCC từ 2019 -2024
Theo Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), DBCC còn đang lưu hành lô trái phiếu DBCCH2126001 giá trị 700 tỷ đồng, phát hành ngày 14/06/2021, kỳ hạn 5 năm, lãi suất 8.17%/năm, đáo hạn vào 14/06/2026.
Tuy nhiên, doanh nghiệp đã mua lại trước hạn 300 tỷ đồng trong tháng 5 và tháng 7, đưa giá trị lưu hành xuống còn 400 tỷ đồng.
Tổng công ty Đông Bắc thành lập năm 2010, Bộ Quốc phòng nắm giữ 51% vốn. Trụ sở đặt tại Quảng Ninh, doanh nghiệp hiện hoạt động chính trong lĩnh vực khai thác và thu gom than cứng, với vốn điều lệ 1,400 tỷ đồng. Tổng Giám đốc kiêm đại diện pháp luật là Đại tá Đỗ Mạnh Khảm.
Thời điểm cuối năm 2024, DBCC có 3 công ty con gồm CTCP Vận tải và Chế biến Than Đông Bắc V, CTCP 397 B và CTCP Than Sông Hồng.
Thanh Tú
FILI - 12:03:21 17/09/2025


Với việc Việt Nam cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, logistics ngược (reverse logistics) trở thành một trong những yếu tố then chốt trong việc xây dựng nền kinh tế tuần hoàn bền vững. Tuy nhiên, mặc dù được coi là "trụ cột thứ tư" của chuỗi cung ứng, logistics ngược vẫn đang là mảnh ghép còn thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế tuần hoàn của Việt Nam, tạo ra khoảng trống lớn giữa tham vọng và thực tế triển khai.
Logistics ngược - trụ cột bị lãng quên trong hệ sinh thái tuần hoàn
Logistics ngược, theo Council of Logistics Management, là quá trình "lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát luồng nguyên liệu thô, hàng tồn kho trong quá trình sản xuất, thành phẩm và thông tin liên quan từ điểm tiêu thụ đến điểm xuất phát nhằm thu hồi giá trị hoặc đảm bảo xử lý đúng quy định"[1].
Khác với logistics truyền thống theo chiều thuận từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng, logistics ngược vận hành theo chiều ngược lại, tạo nên một vòng tuần hoàn khép kín.
Sự khác biệt căn bản này không chỉ nằm ở hướng dòng chảy vật lý mà còn ở bản chất quản lý. Trong khi logistics truyền thống tập trung vào tối ưu chi phí và thời gian giao hàng, logistics ngược phải xử lý các sản phẩm có tình trạng không đồng nhất, từ hàng hoàn trả còn nguyên vẹn đến phế liệu cần tái chế. Điều này đòi hỏi khả năng phân loại, định giá và xử lý phức tạp hơn nhiều so với logistics thuận.
Thị trường logistics ngược toàn cầu đạt hơn 799.8 tỷ USD vào năm 2024 và dự kiến sẽ vượt 1,470 tỷ USD vào năm 2037 với tốc độ tăng trưởng 4.8%. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương được dự báo sẽ chiếm 735 tỷ USD vào năm 2037, chủ yếu nhờ nhu cầu tăng cao từ xe điện và các sản phẩm điện tử[2].
Vai trò của logistics ngược trong việc đóng vòng vật liệu trở nên rõ ràng khi xem xét chu trình sống của sản phẩm. Theo nghiên cứu của Ellen MacArthur Foundation, mô hình kinh tế tuần hoàn có thể tạo ra giá trị kinh tế lên đến 700 tỷ USD vào năm 2030 thông qua việc tối ưu hóa việc sử dụng vật liệu và giảm thiểu chất thải. Trong đó, logistics ngược có vai trò quan trọng ở 3 hoạt động chính: thu hồi sản phẩm từ người tiêu dùng, tái sử dụng các thành phần còn có giá trị, và tái chế vật liệu để làm nguyên liệu cho chu kỳ sản xuất mới.
Tác động của logistics ngược đến chỉ số ESG trở thành yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo UNEP, logistics ngược có thể giảm đến 13 triệu tấn CO₂ cho mỗi 1% tăng thị phần của các mô hình kinh doanh tuần hoàn[3].
Trong khung Circular Economy Framework của EU, logistics ngược được xác định là 1 trong 4 trụ cột chính, cùng với thiết kế tuần hoàn, sản xuất bền vững và tiêu dùng có trách nhiệm[4]. APEC cũng đã đưa logistics ngược vào Kế hoạch Hành động về Kinh tế Tuần hoàn 2021-2025, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng hạ tầng hồi lưu trong khu vực[5]. Tại Việt Nam, mặc dù Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), việc triển khai logistics ngược vẫn còn nhiều thách thức.
Khi doanh nghiệp bắt đầu quay ngược dòng hàng hóa
Trên thế giới, nhiều doanh nghiệp đã thành công trong việc ứng dụng logistics ngược để tạo ra giá trị kinh tế và môi trường. Dell Technologies đã xây dựng hệ thống logistics ngược hiệu quả, thu hồi hơn 2.6 tỷ pound vật liệu điện tử từ năm 2007 và cam kết sử dụng 50% vật liệu tái chế trong sản phẩm mới vào năm 2030[6] [7]. Hệ thống này giúp Dell tiết kiệm chi phí nguyên liệu, tạo ra lợi thế cạnh tranh khi quy định về EPR ngày càng chặt chẽ.
Unilever cũng triển khai chính sách “zero waste to landfill” tại các nhà máy sản xuất chính trên toàn cầu, đảm bảo 100% chất thải không nguy hại được tái sử dụng, tái chế hoặc chuyển hóa thành năng lượng. Nhờ vậy, Unilever tiết kiệm hơn 200 triệu EUR chi phí xử lý chất thải kể từ năm 2008, đồng thời tạo thêm hàng trăm việc làm mới[8].
Trong lĩnh vực bao bì, Tetra Pak đã phát triển mạng lưới thu hồi và tái chế bao bì carton trên toàn cầu. Tại Trung Quốc, Tetra Pak đã thu hồi và tái chế 17 tỷ bao bì vào năm 2013, tương đương 41% tổng sản lượng[9]. Hệ thống hoạt động thông qua mô hình tập trung vào trạm thu gom phế liệu và mô hình tập trung vào doanh nghiệp tái chế.
Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp đã triển khai logistics ngược, dù còn ở quy mô nhỏ. Vinamilk đã xây dựng quy trình thu hồi sản phẩm sữa hết hạn sử dụng từ các cửa hàng và siêu thị trên toàn quốc. Masan Group triển khai hệ thống thu hồi bao bì tại một số tỉnh thành, hợp tác với các hợp tác xã và doanh nghiệp tái chế địa phương.
Theo McKinsey, doanh nghiệp có thể giảm đến 40-50% phát thải CO₂ nếu tái cấu trúc mạng lưới vận chuyển và áp dụng các giải pháp logistics khép kín, bao gồm logistics ngược[10].
Công nghệ số đang đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả logistics ngược. Hệ thống truy vết vật liệu bằng QR code và blockchain giúp theo dõi toàn bộ vòng đời sản phẩm từ sản xuất đến thu hồi. Walmart đã sử dụng blockchain để truy vết nguồn gốc thực phẩm, giúp rút ngắn thời gian xác định nguyên nhân ô nhiễm từ nhiều ngày xuống còn vài giây[11].
Những nút thắt khiến logistics ngược chưa cất cánh
Dù tiềm năng lớn, logistics ngược tại Việt Nam vẫn gặp nhiều rào cản. Hạ tầng logistics hai chiều là thách thức lớn nhất. Theo thống kê từ Hiệp hội Dịch vụ Logistics Việt Nam, chi phí logistics hiện chiếm khoảng 16-18% GDP, cao đáng kể so với mức bình quân 8-11% GDP ở các nền kinh tế phát triển[12]. Đồng thời, phần lớn doanh nghiệp logistics tại Việt Nam, khoảng 70% trong số 3,000 doanh nghiệp, là các đơn vị nhỏ và vừa với hạn chế về vốn và năng lực công nghệ[13]. Việc đầu tư thêm hạ tầng hồi lưu đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn mà nhiều doanh nghiệp chưa sẵn sàng.
Chi phí hồi lưu cao là rào cản thứ hai. Không giống logistics thuận với lượng hàng lớn và tuyến đường cố định, logistics ngược phải xử lý lượng nhỏ, phân tán với tình trạng không đồng nhất. Theo Deloitte, chi phí vận chuyển có thể chiếm tới 60% tổng chi phí logistics ngược, cao hơn đáng kể so với logistics truyền thống vốn có tổ chức và tuyến vận tải cố định[14].
Về chính sách, mặc dù Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã quy định EPR, việc triển khai vẫn còn nhiều khoảng trống. Nghị định 05/2025/NĐ-CP mới được ban hành để sửa đổi một số quy định về EPR, nhưng vẫn thiếu hướng dẫn cụ thể về logistics ngược. Đặc biệt, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hạ tầng hồi lưu vẫn chưa rõ ràng.
Hạn chế về công nghệ truy vết và dữ liệu vòng đời sản phẩm cũng là thách thức lớn. Theo khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), chỉ 35% doanh nghiệp logistics đã thử nghiệm công nghệ blockchain trong truy vết chuỗi cung ứng[15]. Thiếu hệ thống thông tin tích hợp khiến việc theo dõi và quản lý dòng hồi lưu trở nên khó khăn.
Tâm lý tiêu dùng cũng là rào cản. Người tiêu dùng Việt Nam vẫn chưa quen với việc trả lại sản phẩm để tái chế, đặc biệt khi chưa có cơ chế khuyến khích rõ ràng. Khác với Na Uy với tỷ lệ trả lại chai lọ đạt 90% nhờ hệ thống đặt cọc, Việt Nam vẫn thiếu các chương trình tương tự[16].
So sánh chính sách EPR cho thấy khoảng cách lớn giữa Việt Nam và các nước phát triển. EU đã có Circular Economy Action Plan từ năm 2015 với mục tiêu tái chế 50% bao bì nhựa vào năm 2025[17]. Nhật Bản triển khai Home Appliance Recycling Law từ năm 2001, tỷ lệ thu hồi và tái chế thiết bị năm 2021 đạt 92% đối với máy lạnh và máy giặt, và 80-85% đối với tủ lạnh và TV, cao hơn đáng kể so với yêu cầu pháp lý[18]. Thái Lan đang xây dựng Sustainable Packaging Management Act dự kiến thông qua năm 2027 với các công cụ kinh tế như thuế SUP và hệ thống đặt cọc[19].
Trong khi đó, Việt Nam mới bắt đầu thực hiện EPR từ năm 2024 với 24 đơn vị tái chế được ủy quyền. Tỷ lệ tái chế bắt buộc còn thấp và thiếu cơ chế giám sát hiệu quả[20]. Đặc biệt, việc kết nối giữa các doanh nghiệp sản xuất, đơn vị thu gom và cơ sở tái chế vẫn còn nhiều khó khăn.
Đưa logistics ngược vào dòng chảy chính sách
Để phát triển logistics ngược hiệu quả, Việt Nam cần lồng ghép vào các chiến lược quốc gia hiện có. Chiến lược Phát triển Dịch vụ Logistics đến năm 2030 đã đặt mục tiêu giảm chi phí logistics xuống 16-18% GDP và đạt thứ 45 trên bảng xếp hạng LPI[21]. Tích hợp logistics ngược vào chiến lược này sẽ tạo ra hiệu ứng tổng hợp, vừa giảm chi phí vừa nâng cao tính bền vững.
Kế hoạch Hành động Quốc gia về Kinh tế Tuần hoàn đến năm 2035 do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì đang ưu tiên 4 lĩnh vực: lương thực - thực phẩm, xây dựng, giao thông vận tải và dệt may. Logistics ngược cần được xác định rõ vai trò trong từng lĩnh vực này, đặc biệt trong việc hình thành hạ tầng hồi lưu chung phục vụ chuỗi cung ứng tuần hoàn[22].
Đề xuất xây dựng hạ tầng hồi lưu theo chuỗi giá trị ngành là giải pháp khả thi. Thay vì mỗi doanh nghiệp tự xây dựng hệ thống riêng, các doanh nghiệp trong cùng ngành có thể hợp tác xây dựng hệ thống chung. Mô hình này đã thành công tại Đức với hệ thống DSD (Duales System Deutschland) xử lý bao bì của toàn ngành[23].
Trong cụm công nghiệp, mô hình chia sẻ hệ thống thu gom, tái chế và vận chuyển sẽ tối ưu chi phí và nâng cao hiệu quả. Các khu công nghiệp sinh thái như Hiệp Phước, Amata, Deep C đã bắt đầu triển khai các giải pháp RECP (Resource Efficient and Cleaner Production), giúp giảm 30 triệu kWh điện và 56,000 m³ nước mỗi năm[24]. Tích hợp logistics ngược vào các khu công nghiệp này sẽ tạo ra hệ sinh thái tuần hoàn hoàn chỉnh.
Công nghệ số đang đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả logistics ngược. Hệ thống blockchain kết hợp IoT sẽ cho phép theo dõi theo thời gian thực dòng vật liệu hồi lưu, từ đó tối ưu hóa tuyến đường và lịch trình thu gom. Tiêu chuẩn MRV (Measurement, Reporting, Verification) cần được áp dụng đồng bộ. Hệ thống blockchain kết hợp IoT sẽ cho phép theo dõi theo thời gian thực dòng vật liệu hồi lưu, từ đó tối ưu hóa tuyến đường và lịch trình thu gom. Tiêu chuẩn MRV sẽ đảm bảo tính minh bạch và đáng tin cậy của dữ liệu, tạo cơ sở cho các cơ chế tài chính xanh.
Đến cuối năm 2023 tổng dư nợ tín dụng xanh tại Việt Nam đạt khoảng 665 ngàn tỷ đồng (tương đương 26.6 tỷ USD), chiếm khoảng 4.5% tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế. Đây là tín hiệu tích cực cho thấy tín dụng xanh đang tăng trưởng, mở ra cơ hội huy động vốn phát triển hạ tầng logistics ngược theo cơ chế PPP và quỹ hỗ trợ kinh tế tuần hoàn[25].
PPP (Public-Private Partnership) là cơ chế hợp tác giữa Nhà nước và khu vực tư nhân để cùng đầu tư, xây dựng và vận hành các dự án hạ tầng hoặc dịch vụ công. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý, đất đai, hoặc hỗ trợ tài chính; doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm triển khai, vận hành và thu hồi vốn. Đây là mô hình phổ biến trong lĩnh vực giao thông, môi trường, năng lượng và logistics.
Chứng chỉ hoàn trả bao bì (packaging return certificate) có tiềm năng trở thành một công cụ tài chính mới, cho phép các doanh nghiệp giao dịch quyền tái chế tương tự như cơ chế tín chỉ carbon. Mô hình này đã được áp dụng thành công tại Australia thông qua chương trình National Packaging Targets, hình thành thị trường giao dịch quyền tái chế trị giá hàng triệu USD mỗi năm.
Theo cam kết của Tổ chức Sáng kiến Tăng trưởng Xanh Toàn cầu (GGGI), Việt Nam sẽ nhận được hỗ trợ 1 tỷ USD trong giai đoạn 2024-2028, với logistics bền vững là một trong 7 lĩnh vực trọng tâm[26].
[1] https://paspk.org/wp-content/uploads/proceedings/50,%20No.3/34761284Reverse%20Logistics,%20An%20Empirical%20Study%20for%20Operational%20Framework.pdf
[2] https://www.researchnester.com/reports/reverse-logistics-market/6267
[3] https://circulareconomy.europa.eu/platform/sites/default/files/2023-12/Full%20Report%20-%20UNEP%20Sustainability%20and%20Circularity%20in%20the%20Textile%20Value%20Chain%20A%20Global%20Roadmap_0.pdf
[4] https://circulareconomy.europa.eu/platform/sites/default/files/2023-12/Full%20Report%20-%20UNEP%20Sustainability%20and%20Circularity%20in%20the%20Textile%20Value%20Chain%20A%20Global%20Roadmap_0.pdf
[5] https://www.oecd.org/content/dam/oecd/en/publications/reports/2025/01/beyond-food-loss-and-waste-reduction-targets_af587d11/59cf6c95-en.pdf
[6] https://www.dell.com/en-us/blog/managing-ewaste-responsibly-critical-steps-towards-a-circular-economy/
[7] https://www.dell.com/en-us/dt/corporate/social-impact/reporting/goals.htm
[8] https://www.environmentenergyleader.com/stories/unilever-chief-supply-chain-officer-on-how-to-achieve-zero-waste,12182
[9] https://www.atlantis-press.com/article/25902232.pdf
[10] https://www.mckinsey.com/capabilities/operations/our-insights/decarbonizing-logistics-charting-the-path-ahead
[11] https://jbba.scholasticahq.com/article/3712-food-traceability-on-blockchain-walmart-s-pork-and-mango-pilots-with-ibm/attachment/20459.pdf
[12] https://valoma.vn/wp-content/uploads/2023/12/Bao-cao-Logistics-Viet-Nam-2023.pdf
[13] https://vietnamcredit.com.vn/news/logistics-to-contribute-10-to-gdp-by-2025_228
[14] https://nshift.com/blog/understanding-the-costs-in-reverse-logistics
[15] https://logistics.gov.vn/logistics-service-businesses-in-vietnam-transform-digitally-to-reduce-costs
[16] https://www.fathom-consulting.com/a-norwegians-guide-to-recycling/
[17] https://www.giz.de/en/downloads/giz-2023-towards-clean-oceans.pdf
[18] https://www.meti.go.jp/english/press/2022/0701_002.html
[19] https://www.adb.org/sites/default/files/publication/1047011/adb-brief-338-thailand-economic-instruments-plastic-packaging.pdf
[20] https://tapchimoitruong.vn/news-13/extended-producer-responsibility-and-opportunities-for-formalization-of-informal-waste-collectors-31696
[21] https://ttdn.vn/hoi-nhap-va-phat-trien/du-thao-chien-luoc-phat-trien-dich-vu-logistics-viet-nam-can-co-muc-tieu-cu-the-ve-logistics-xanh-96907
[22] https://tapchimoitruong.vn/news-13/scientific-basis-tasks-solutions-and-roadmap-for-implementing-the-national-action-plan-to-implement-circular-economy-by-2035-32069
[23] https://www.mdpi.com/2071-1050/13/12/6772
[24] https://vneconomy.vn/techconnect/industrial-parks-in-green-transition.htm
[25] https://vietnam.un.org/en/download/184836/295148
[26] https://english.vov.vn/en/politics/diplomacy/pm-lauds-gggi-commitment-to-net-zero-target-in-vietnam-post1192734.vov
Nguyễn Nhiều Lộc
FILI - 09:00:00 31/08/2025


Quý 2/2025, CTCP Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc (Đạm Hà Bắc, UPCoM: DHB) phục hồi mạnh lợi nhuận nhờ giá ure tăng và không gặp rắc rối trong quá trình vận hành như cùng kỳ.
Các chỉ tiêu kinh doanh của Đạm Hà Bắc trong quý 2/2025
Quý 2 năm nay, Đạm Hà Bắc đạt gần 1.2 ngàn tỷ đồng doanh thu thuần, tăng 24% so với cùng kỳ, trong khi giá vốn chỉ tăng 2%. Sau khấu trừ, lãi gộp đạt 154 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ 59 tỷ đồng). Doanh nghiệp cho biết, doanh thu tăng một phần nhờ tình hình sản xuất đã ổn định hơn, khi cùng kỳ gặp phải sự cố dừng máy 45 ngày không có sản phẩm vì sét đánh.
Bên cạnh đó, thị trường ure thế giới diễn biến thuận lợi, giá bán tăng. Công ty đã tập trung phục vụ thị trường trong nước, lượng còn lại xuất khẩu sang một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản... giúp doanh thu vượt trội hơn.
Doanh thu tài chính trong kỳ tăng mạnh 92%, lên gần 10 tỷ đồng. Chi phí tài chính giảm 20%, còn 66 tỷ đồng. Chi phí bán hàng tăng mạnh 47%, trong khi chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 10%. Một chỉ tiêu đáng chú ý là lợi nhuận khác giảm 86%, còn 7.2 tỷ đồng. Nhưng sau cùng, nhờ lãi gộp tăng mạnh, Đạm Hà Bắc kết thúc quý 2 với 42 tỷ đồng lãi sau thuế, phục hồi mạnh so với khoản lỗ 137 tỷ đồng cùng kỳ.
Lũy kế 6 tháng, Đạm Hà Bắc đạt hơn 2.4 ngàn tỷ doanh thu thuần, tăng 19%; lãi sau thuế 58 tỷ đồng (cùng kỳ lỗ 99 tỷ đồng). So với kế hoạch thông qua tại ĐHĐCĐ 2025, Doanh nghiệp thực hiện được 51% mục tiêu doanh thu, và gần 47% kế hoạch lãi sau thuế sau 6 tháng.
Nguồn: VietstockFinance
Thời điểm cuối tháng 6, tổng tài sản của DHB đạt 5.8 ngàn tỷ đồng, giảm 7% so với đầu năm. Tài sản ngắn hạn chiếm hơn hơn 1.16 ngàn tỷ đồng, giảm 9%. Lượng tiền mặt và tiền gửi đạt gần 350 tỷ đồng, giảm 17%. Tồn kho đạt 479 tỷ đồng, giảm 11%.
Bên nguồn vốn, phần lớn nợ phải trả (hơn 5.1 ngàn tỷ đồng) là nợ dài hạn. Nợ ngắn hạn ghi nhận hơn 1 ngàn tỷ đồng, giảm 14%. Nợ vay ngắn hạn gần như đi ngang, đạt 414 tỷ đồng. Nợ vay dài hạn ghi nhận hơn 2 ngàn tỷ đồng. Các khoản nợ chủ yếu là khoản vay dài hạn tại Ngân hàng Phát triển (VDB) và tại BIDV.
Châu An
FILI - 14:58:00 26/07/2025


Bất chấp doanh thu cải thiện, lợi nhuận quý 2/2025 của CTCP Cấp nước Đồng Nai (Dowaco, UPCoM: DNW) sụt giảm mạnh, chủ yếu do khoản lỗ chênh lệch tỷ giá phát sinh khi đánh giá lại dư nợ vay ngoại tệ.
Theo BCTC hợp nhất quý 2/2025, Dowaco ghi nhận doanh thu thuần 342 tỷ đồng từ hoạt động kinh doanh nước sạch, tăng 1.6% so với cùng kỳ năm ngoái. Biên lợi nhuận gộp duy trì 38.2%, khoảng 130 tỷ đồng, cho thấy mảng cốt lõi vẫn giữ được sự ổn định.
Tuy nhiên, các khoản mục liên quan đến tỷ giá đã ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận ròng. Cụ thể, doanh thu hoạt động tài chính chỉ còn 8.2 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái hơn 58 tỷ đồng nhờ khoản lãi chênh lệch tỷ giá từ việc đánh giá lại các khoản vay ngoại tệ. Năm nay, yếu tố này không còn xuất hiện.
Ngược lại, chi phí tài chính trong kỳ tăng vọt lên gần 55 tỷ đồng, gấp hơn 5 lần quý 2/2024 do phát sinh lỗ tỷ giá cũng từ việc đánh giá lại dư nợ vay ngoại tệ, trong bối cảnh tỷ giá USD/VNĐ đã tăng đáng kể trong khoảng 1 năm qua. Khoản lỗ khiến lãi ròng quý 2 của Dowaco chỉ còn hơn 34 tỷ đồng, giảm tới 71%.
Dowaco là một trong số ít doanh nghiệp ngành nước tiếp cận nguồn vốn ODA để đầu tư các dự án hạ tầng. Trước đó, các dự án cấp nước Thiện Tân giai đoạn 1 và 2 và cấp nước Nhơn Trạch giai đoạn 1 của Công ty nhận được vốn đầu tư từ Chính phủ Hàn Quốc và Chính phủ Nhật Bản, không ít lần khiến Dowaco lần nhận lãi/lỗ từ biến động tỷ giá.
Các khoản vay dài hạn bằng đồng JPY và USD, kỳ hạn 18-25 năm với lãi suất 1.3%-3.53%/năm được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) - Chi nhánh Sở giao dịch II. Đến cuối tháng 6/2025, dư nợ vay tại ngân hàng này còn khoảng 302 tỷ đồng, giảm mạnh so với mức đỉnh gần 1.4 ngàn tỷ đồng vào cuối năm 2018.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu của Dowaco ghi nhận 656 tỷ đồng, tăng nhẹ 1.3%. Lợi nhuận gộp 257 tỷ đồng, đều khả quan nhất từ trước đến nay nếu so cùng giai đoạn. Tuy nhiên, lợi nhuận ròng chỉ còn gần 116 tỷ đồng, giảm 41% so với nửa đầu 2024, chủ yếu do ảnh hưởng từ tỷ giá.
Dù vậy, Dowaco vẫn đang đi đúng lộ trình kinh doanh năm 2025 khi đặt mục tiêu lợi nhuận sau thuế (chưa bao gồm chênh lệch tỷ giá) là 270 tỷ đồng. Sau 2 quý, Công ty đã thực hiện khoảng 61% kế hoạch.
Tính đến cuối tháng 6, tổng tài sản Dowaco khoảng 3.36 ngàn tỷ đồng. Dư nợ vay ngắn hạn và dài hạn lần lượt là 209 tỷ đồng và 577 tỷ đồng, đều giảm nhẹ so với đầu năm.
Hoạt động kinh doanh cốt lõi của Dowaco vẫn khả quan sau nửa đầu năm 2025
Tử Kính
FILI - 15:54:49 25/07/2025
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。