行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值












VIP跟單
所有跟單
所有比賽



法國貿易帳 (季調後) (10月)公:--
預: --
歐元區就業人數年增率 (季調後) (第三季度)公:--
預: --
加拿大兼職就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大失業率 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大全職就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大就業參與率 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
美國PCE物價指數月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國個人收入月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國核心PCE物價指數月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國PCE物價指數年增率 (季調後) (9月)公:--
預: --
前: --
美國核心PCE物價指數年增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國個人支出月增率 (季調後) (9月)公:--
預: --
美國五至十年期通膨率預期 (12月)公:--
預: --
前: --
美國實際個人消費支出月增率 (9月)公:--
預: --
美國當週鑽井總數公:--
預: --
前: --
美國當周石油鑽井總數公:--
預: --
前: --
美國消費信貸 (季調後) (10月)公:--
預: --
中國大陸外匯存底 (11月)公:--
預: --
前: --
日本貿易帳 (10月)公:--
預: --
前: --
日本名義GDP季增率修正值 (第三季度)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額年增率 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸出口額 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸貿易帳 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸出口額年增率 (美元) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額年增率 (美元) (11月)公:--
預: --
前: --
德國工業產出月增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
歐元區Sentix投資者信心指數 (12月)公:--
預: --
前: --
加拿大全國經濟信心指數--
預: --
前: --
英國BRC同店零售銷售年增率 (11月)--
預: --
前: --
英國BRC總體零售銷售年增率 (11月)--
預: --
前: --
澳洲隔夜拆借利率--
預: --
前: --
澳洲央行利率決議
澳洲聯儲主席布洛克召開貨幣政策記者會
德國出口月率 (季調後) (10月)--
預: --
前: --
美國NFIB小型企業信心指數 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
墨西哥12個月通膨年增率 (CPI) (11月)--
預: --
前: --
墨西哥核心消費者物價指數 (CPI) 年增率 (11月)--
預: --
前: --
墨西哥PPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
美國當周紅皮書同店零售銷售指數年增率--
預: --
前: --
美國JOLTS職位空缺 (季調後) (10月)--
預: --
前: --
中國大陸M1貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸M0貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸M2貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
美國EIA當年短期前景原油產量預期 (12月)--
預: --
前: --
美國EIA次年天然氣產量預期 (12月)--
預: --
前: --
美國EIA次年短期原油產量預期 (12月)--
預: --
前: --
EIA月度短期能源展望報告
美國當週API汽油庫存--
預: --
前: --
美國當週API庫欣原油庫存--
預: --
前: --
美國當週API原油庫存--
預: --
前: --
美國當週API精煉油庫存--
預: --
前: --
韓國失業率 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
日本路透短觀非製造業景氣判斷指數 (12月)--
預: --
前: --
日本路透短觀製造業景氣判斷指數 (12月)--
預: --
前: --
日本國內企業商品價格指數月增率 (11月)--
預: --
前: --
日本國內企業商品價格指數年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸PPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸CPI月增率 (11月)--
預: --
前: --


無匹配數據
Những con tàu mà chỉ vài cảng trong nước tiếp nhận được vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng của MSC. Trong góc nhìn của hãng vận tải container hàng đầu thế giới, trở lực không chỉ nằm ở độ sâu luồng lạch mà còn ở cách cả hệ sinh thái cảng và logistics được thiết kế, kết nối và vận hành.
Tại Diễn đàn Kinh tế Mùa Thu 2025 ở TPHCM, Tổng Giám đốc MSC Việt Nam Benoit de Quillacq cho biết MSC mong muốn đưa những con tàu có kích thước lớn hơn nữa vào Việt Nam. Để làm được điều đó, ông cho rằng đất nước cần tăng công suất cảng nước sâu, bảo đảm luồng sà lan thông suốt, nâng độ tĩnh không cầu để đáp ứng đoàn sà lan lớn và có chiến lược kết nối đa phương thức rõ ràng.
Từ chủ đề logistics và cảng thông minh, ông mở rộng sang bức tranh toàn cầu của ngành vận tải biển với 3 xu hướng chính: giảm phát thải, số hóa và tăng khả năng chống chịu chuỗi cung ứng. “Khử carbon, số hóa và khả năng chống chịu không phải 3 mục tiêu tách biệt, mà là một câu chuyện duy nhất cần xử lý đồng bộ”, ông nhấn mạnh.
Đối với MSC, số hóa trước hết phục vụ hiệu quả vận hành. Công nghệ giúp vận tải biển, cảng, ICD và kho bãi hoạt động trơn tru hơn, và hiệu quả vận hành đồng nghĩa với tiết kiệm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong bối cảnh chi phí trở thành yếu tố quyết định thắng thua, số hóa không còn mang tính tự chọn.
Về mục tiêu giảm phát thải, MSC đã theo đuổi từ nhiều năm trước. Hãng đang phát triển thế hệ tàu sử dụng LNG, bio-LNG và các dạng năng lượng tái tạo, với khoảng 150 tàu mới sẽ gia nhập đội tàu trong thời gian tới. Theo ông Benoit de Quillacq, mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 là cam kết cốt lõi của MSC và sẽ ảnh hưởng tới mọi quyết định về đội tàu, công nghệ và cách vận hành trong nhiều thập kỷ.
Dù vậy, tất cả chiến lược đều quay về một điều mà doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam quan tâm nhất: hàng hóa có được hưởng tuyến dịch vụ trực tiếp, thời gian vận chuyển ổn định và chi phí hợp lý hay không. Dưới góc nhìn MSC, điều mà chủ hàng cần là tuyến thẳng, thời gian vận chuyển có thể dự đoán và kết nối liền mạch từ cầu cảng tới ICD và kho bãi cuối cùng.
Chuyên gia cũng đánh giá cao sự linh hoạt của chính quyền và doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn biến động vừa qua. Tuy nhiên, để duy trì đà tăng trưởng khi thương mại tiếp tục mở rộng, năng lực cảng biển trở thành yếu tố quyết định. Việt Nam đang cạnh tranh trực tiếp với những trung tâm lớn như Busan, Thượng Hải, Singapore và trong cuộc đua này, quy mô cảng nước sâu chính là thước đo vị thế.
Ông Benoit de Quillacq cho rằng danh sách bến có thể đón tàu cỡ 200,000DWT tại Việt Nam vẫn còn rất ngắn. Hai bến hiện có là tín hiệu tích cực, nhưng chưa đủ trong bối cảnh thị trường container tăng nhanh. MSC muốn đưa tàu lớn và mở thêm tuyến trực tiếp đến Việt Nam, nhưng điều đó chỉ khả thi khi “tàu phải có chỗ cập, và từ đó container phải đi qua được một hậu phương đủ mạnh”.
Miền Nam là minh chứng rõ nhất cho bài toán này. Hệ thống ICD quanh TPHCM có lợi thế tự nhiên với mạng lưới sông ngòi dày đặc, khoảng 95% thị trường phụ thuộc vận tải sà lan. Tuy nhiên, lợi thế ấy chưa được khai thác trọn vẹn do luồng tuyến và hạ tầng kỹ thuật còn hạn chế. Đại diện MSC Việt Nam cho biết có thời điểm “hành trình từ Cái Mép về TPHCM dài tương đương từ Singapore đến Cái Mép”. Điều cần xử lý là tổ chức lại luồng sà lan, nâng năng suất làm hàng tại cảng nước sâu, tránh tình trạng tàu mẹ bốc dỡ nhanh nhưng container ùn ứ vì không giải tỏa kịp.
Một nút thắt thầm lặng nhưng cấp bách nằm ở độ tĩnh không dưới các cây cầu. Theo chuyên gia, khi thị trường tăng trưởng hai chữ số, việc sử dụng đoàn sà lan lớn hơn là xu hướng không thể tránh. Hiện sức chở sà lan ra vào khu vực khoảng 300 TEU, phù hợp với nhu cầu hiện tại nhưng khó đáp ứng cho tương lai. Để tối ưu chi phí và năng lực vận chuyển, sà lan phải lớn hơn - và điều đó chỉ khả thi khi chúng đi qua được dưới cầu.
Từ đó, ông đặt vấn đề quy hoạch ICD mới ở phía Bắc TPHCM song song với thiết kế cầu vượt sông có tĩnh không phù hợp cho sà lan tương lai. Cảng biển cần được quy hoạch gắn với không gian vận hành đường thủy hậu phương ngay từ đầu.
Trong “bức tranh hậu phương” mà MSC kỳ vọng, không chỉ có sà lan. Ở phía Bắc, cảng nước sâu có thể sớm kết nối đường sắt để tạo chuỗi vận chuyển qua Trung Quốc sang châu Âu. “Điều tương tự hoàn toàn có thể đạt được nếu miền Nam có đường sắt nối cảng nước sâu. Khi đó container có thể đi xa hơn nội địa rất nhiều”, ông gợi mở. MSC cũng đã đầu tư đội xe container đường bộ tại Việt Nam, xem đây là “mảnh ghép quan trọng” bên cạnh đường thủy và đường sắt tương lai. Mục tiêu cuối cùng là một hệ sinh thái đa phương thức, nơi từng phương tiện bổ trợ, không cạnh tranh nhau.
Triết lý vận hành của MSC là ưu tiên tuyến trực tiếp thay vì trung chuyển qua nhiều tầng. Chính vì vậy, công suất cảng nước sâu và khả năng kết nối hậu phương tại Việt Nam mang ý nghĩa chiến lược: càng triển khai nhiều tuyến trực tiếp, càng đòi hỏi bến bãi và mạng lưới đa phương thức phía sau đủ mạnh để hỗ trợ.
Các nhà đầu tư hạ tầng tại diễn đàn cũng ghi nhận xu hướng này. Đại diện một đơn vị tư vấn thiết kế cảng biển cho biết số hóa là công cụ của hệ sinh thái logistics thông minh và xanh, trong đó “digital twin” giúp mô phỏng và tối ưu vận hành, giảm tiêu hao năng lượng và rủi ro trước biến đổi khí hậu. Việc Việt Nam muốn đón tàu lớn không chỉ ở độ sâu luồng, mà còn ở thiết kế cảng thích ứng khí hậu, đảm bảo khai thác tối đa.
Ông Benjamin Lim, Giám đốc chiến lược YCH - tập đoàn logistics Singapore, cho biết Doanh nghiệp đã chuyển từ cung cấp dịch vụ logistics sang phát triển “siêu cảng” logistics với dự án đầu tiên đặt gần Hà Nội. Mô hình sẽ kết hợp đường bộ, đường sắt, đường thủy cùng công nghệ như hệ thống quản lý kho, IoT và trung tâm điều hành. YCH còn đầu tư đào tạo nhân lực với chương trình 9 tháng tại Singapore cho sinh viên Việt Nam nhằm “học logistics bằng trải nghiệm thực tế”.
Theo ông Lim, số hóa không chỉ dành cho các tập đoàn lớn. Dữ liệu là “đồng tiền mới” của logistics và nếu doanh nghiệp nhỏ không tiếp cận nền tảng số, họ sẽ khó cạnh tranh. YCH đang thử nghiệm “chợ logistics số” kết nối doanh nghiệp sản xuất với nhà vận chuyển và ngân hàng nhằm tối ưu tìm đối tác và tài trợ vốn.
Ở bình diện nội tại, ngành logistics Việt Nam còn nhiều việc phải làm. Ông Lê Duy Hiệp, Tổng Giám đốc Transimex, cho biết ngành hiện trị giá 70-76 tỷ USD dựa trên chi phí logistics chiếm khoảng 16% GDP. “Cả nước có khoảng 40,000 doanh nghiệp logistics, 75% là nhỏ và vừa. Với nhóm này, đầu tư cho số hóa là thách thức dù ai cũng hiểu đó là xu hướng bắt buộc”, ông nhận định.
Transimex đang triển khai hệ thống TMS cho vận tải, WMS cho kho bãi và phần mềm quản lý khai thác cảng container do doanh nghiệp trong nước phát triển, hiện đã được sử dụng tại hơn 20 bến. Doanh nghiệp cũng vừa đưa vào vận hành kho tự động tại Long An với sức chứa 60,000 pallet vận hành bằng robot, đồng thời trang bị điện mặt trời cho các trung tâm logistics từ Long An đến Hà Nội.
Theo ông Hiệp, số hóa gắn với logistics xanh phải đi cùng nhau vì tiêu chuẩn ESG đang trở thành điều kiện tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Sau sáp nhập, TPHCM trở thành đô thị hơn 10 triệu dân nên cần một quy hoạch logistics đô thị thống nhất tích hợp hạ tầng, cảng, trung tâm logistics và khu dân cư. Nếu không, các vấn đề tắc nghẽn và xung đột luồng hàng - đời sống đô thị rất dễ lặp lại bài học Bangkok hay Manila.
Từ góc nhìn quốc tế, nhiều chuyên gia đồng thuận rằng Việt Nam muốn trở thành trung tâm logistics thông minh cần “xương sống số” ở cấp quốc gia, trong đó hệ thống cộng đồng cảng (PCS) đóng vai trò cốt lõi. PCS kết nối hãng tàu, cảng, hải quan, vận tải đường bộ - đường sắt - ICD trên một nền tảng trung lập cho phép “khai báo một lần, dùng cho nhiều bên” và theo dõi thời gian thực.
Một số chuyên gia dẫn mô hình cảng Tuas tại Singapore - cảng container tự động quy mô lớn với năng lực xử lý 65 triệu TEU mỗi năm - như minh chứng cho chuẩn mực của logistics thế hệ mới. Hiện toàn cầu mới chỉ có vài chục cảng tự động hoặc bán tự động, còn Việt Nam đang trong bước chuẩn bị những dự án đầu tiên. Nếu thực hiện đúng hướng, đó có thể là bước nhảy đưa hệ sinh thái cảng và logistics Việt Nam tiệm cận nhóm dẫn đầu khu vực trong thập kỷ tới.
Tử Kính
FILI - 15:54:48 27/11/2025
CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình cho biết chưa thể thanh toán 12.4 tỷ đồng tiền gốc cho lô trái phiếu HBCH2225002 do chưa thu xếp được nguồn vốn.
Đây là phần còn lại của lô trái phiếu phát hành cuối tháng 10/2022, có tổng giá trị ban đầu 94.6 tỷ đồng, lãi suất 11%/năm và đã đáo hạn vào cuối 10 vừa qua. Tài sản bảo đảm bao gồm thiết bị, vật tư của HBC trị giá 177 tỷ đồng và hơn 5.35 triệu cp HBC thuộc sở hữu ông Lê Viết Hải, tương đương khoảng 34 tỷ đồng theo thị giá hiện nay. Trái chủ là Chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam (VBSE).
Chủ tịch Lê Viết Hải cho biết Doanh nghiệp đang tiếp tục thương thảo với trái chủ. Trước đó, HBC đã mua lại phần lớn lô này trong nửa đầu năm, với tổng giá trị hơn 35 tỷ đồng, qua đó giảm dư nợ gốc xuống mức hiện tại. Trong cùng kỳ, Công ty cũng chi khoảng 1.2 tỷ đồng tiền lãi cho lô trái phiếu.
HBC chưa thể thanh toán nốt phần tiền gốc của lô trái phiếu HBCH2225002. Nguồn: HBC
HBC cũng đang đàm phán với nhà đầu tư để trả hơn 10 tỷ đồng tiền lãi của lô trái phiếu HBCH2126001, trị giá ban đầu 500 tỷ đồng, phát hành cuối 2021 và đáo hạn cuối 2026. Lô này hiện còn dư nợ 376 tỷ đồng, được đảm bảo bằng hơn 48 triệu cp HBC của ông Lê Viết Hải, bà Bùi Ngọc Mai, ông Lê Viết Hiếu và bà Phạm Thị Quốc Hương. Trái chủ là Ngân hàng Hàng Hải Việt Nam (MSB) - chi nhánh TPHCM.
Dù quy mô trái phiếu chiếm tỷ trọng nhỏ, HBC vẫn đang gánh nợ vay đáng kể. Tính đến cuối quý 3, tổng vay nợ gần 4 ngàn tỷ đồng, chủ yếu ngắn hạn. Chi phí lãi vay từ đầu năm là 284 tỷ đồng, trong khi lợi nhuận gộp hoạt động cốt lõi chỉ đạt 184 tỷ đồng. Riêng quý 3, HBC chi gần 95 tỷ đồng trả lãi, tăng 33% so với cùng kỳ.
Dư nợ vay của doanh nghiệp xây dựng đã giảm so với giai đoạn đỉnh hơn 6 ngàn tỷ đồng cuối 2022, thời điểm HBC lỗ kỷ lục hơn 2.5 ngàn tỷ đồng và chi phí lãi vay vượt 520 tỷ đồng. Tuy nhiên, nợ ngắn hạn vẫn ở mức cao, hơn 12.7 ngàn tỷ đồng cuối quý 3.
Trong khi đó, HBC ghi nhận quý lãi cao nhất kể từ quý 2/2024, với lợi nhuận ròng 182 tỷ đồng. Phần lớn khoản lãi này đến từ 232 tỷ đồng tiền lãi chậm thanh toán được tòa án phán quyết có lợi cho Công ty, chứ không đến từ hoạt động xây dựng cốt lõi. Dù báo lãi lớn và còn hơn 300 tỷ đồng tiền gửi ngân hàng, HBC vẫn trì hoãn thanh toán phần nợ gốc trái phiếu nói trên.
Trước đó, HBC liên tiếp thắng kiện trong các tranh chấp hợp đồng xây dựng. Cuối tháng 9, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai buộc Tập đoàn TMS phải trả gần 154 tỷ đồng, gồm 45 tỷ đồng tiền lãi chậm trả, liên quan dự án khách sạn 5 sao TMS Luxury Hotel Quy Nhơn Beach.
Thu nhập từ hoạt động tài chính tăng vọt trong quý 3 giúp HBC lãi lớn
Tử Kính
FILI - 13:58:31 06/11/2025

Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam dốc sức đầu tư vào sản xuất xanh, một nghịch lý đang khiến họ có nguy cơ "thua trắng": hệ thống logistics lạc hậu.
Với 85% phát thải ngành vận tải đến từ đường bộ và dự báo lượng phát thải sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030, những nỗ lực giảm carbon tại nhà máy đang bị suy giảm nghiêm trọng[1]. Thực trạng này không chỉ đe dọa cam kết Net Zero 2050 mà còn đặt ra câu hỏi cấp bách: phải chăng Việt Nam đang bỏ quên mắt xích then chốt nhất trong cuộc đua bền vững?
Nghịch lý “Nhà máy xanh, Con đường xám”
Bức tranh tổng thể về phát thải từ logistics cho thấy một thực tế đáng báo động, theo đánh giá của Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), ngành logistics toàn cầu đóng góp khoảng 7-8% tổng lượng phát thải CO2. Tại Việt Nam, con số của World Bank cho thấy hoạt động vận tải phát thải trung bình hơn 50 triệu tấn CO2 mỗi năm[2], và theo dự báo mới nhất của Bộ Giao thông Vận tải, con số này có nguy cơ tăng vọt lên gần 89.1 triệu tấn vào năm 2030 nếu không có hành động quyết liệt[3]. Nếu không có sự thay đổi đột phá, những khoản đầu tư khổng lồ vào nhà máy xanh có nguy cơ không đạt được hiệu quả như kỳ vọng.
Bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư mạnh mẽ vào sản xuất xanh là không thể phủ nhận. Theo World Bank, Việt Nam đã có khoảng 1.7 triệu việc làm xanh và con số này dự kiến tăng mạnh khi Chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình mở rộng các hành động ứng phó biến đổi khí hậu.
Từ năm 2019 đến 2023, công suất điện mặt trời lắp đặt của Việt Nam đã tăng vọt từ 4.5GW lên hơn 17GW nhờ các ưu đãi chính sách và đầu tư tư nhân. Kế hoạch Phát triển Điện lực quốc gia lần thứ 8 (PDP8) hiện nhắm đến 73GW điện mặt trời vào năm 2030, tăng hơn năm lần so với mục tiêu 12.8GW trước đó[4].
Tuy nhiên, khi phân tích theo khung phát thải Scope 1, 2 và 3 theo Giao thức khí nhà kính, điểm yếu rõ ràng nằm ở Scope 3 - nơi logistics đóng vai trò chính nhưng thường bị bỏ qua. Theo nghiên cứu của DHL, phát thải Scope 3 chiếm từ 75% đến hơn 90% tổng dấu chân carbon của một tổ chức[5]. Đối với ngành logistics, sự phức tạp này càng trở nên đáng lo ngại do sự tham gia của các hoạt động đa dạng, từ hoạt động của nhà cung cấp đến giao hàng cho khách hàng.
Trong Chiến lược Tăng trưởng Xanh Quốc gia giai đoạn 2021-2030 với tầm nhìn đến 2050, logistics được xác định là một trong 18 chủ đề trọng yếu. Quyết định 876/QĐ-TTg về chương trình hành động chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải CO2 và metan của ngành giao thông vận tải nhằm phát triển hệ thống giao thông xanh để đạt được mức phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào năm 2050. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chỉ tập trung vào giảm phát thải tại nhà máy (Scope 1 & 2) là chưa đủ.
Theo Bộ GTVT, ngành vận tải Việt Nam đặt mục tiêu giảm 5.9% phát thải khí nhà kính so với kịch bản Business-as-Usual (BAU) vào năm 2030, tương đương với việc giảm tích lũy 45.62 triệu tấn CO2 trong giai đoạn 2021-2030. Mốc giảm phát thải bao gồm 3.4 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2025 và 10.61 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2030. Không có các biện pháp giảm thiểu bổ sung, phát thải từ ngành vận tải dự kiến tăng đáng kể từ 33.2 triệu tấn năm 2014 lên 89.1 triệu tấn năm 2030[6].
Tầm quan trọng của logistics xanh trong cam kết của Việt Nam tại các hội nghị COP không thể phủ nhận. Tại COP27, Việt Nam đã cam kết giảm 30% phát thải methane và chấm dứt nạn phá rừng vào năm 2030[7]. Việt Nam cũng cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Báo cáo ESG thiếu sót do chỉ tập trung vào sản xuất mà bỏ qua logistics có thể dẫn đến việc không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế ngày càng nghiêm ngặt về tính minh bạch trong báo cáo phát thải.
Đo lường 'Dấu chân carbon' của chuỗi cung ứng
Phân tích các nguồn phát thải chính trong hoạt động logistics tại Việt Nam cho thấy sự phụ thuộc quá mức vào vận tải đường bộ. Theo World Bank, vận tải hàng hóa bằng xe tải chiếm 77% tổng lượng hàng hóa tại Việt Nam[8], trong khi vận tải đường bộ chiếm 85% tổng phát thải từ hoạt động vận tải[9]. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỷ lệ xe chạy rỗng chiều về có thể lên tới 70%, tạo ra lãng phí năng lượng và gia tăng phát thải không cần thiết[10].
Trong lĩnh vực nông sản, tình trạng tổn thất sau thu hoạch và hệ thống chuỗi lạnh chưa phát triển đồng bộ đang tạo ra những rò rỉ phát thải đáng kể. Theo nghiên cứu về kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam, trong nuôi trồng thủy sản, tỷ lệ thu gom phụ phẩm đạt hơn 90%[11], nhưng phần lớn được sử dụng để chiết xuất các hợp chất sinh học và sản xuất phân bón hữu cơ. Tuy nhiên, việc vận chuyển và bảo quản các sản phẩm này vẫn phụ thuộc chủ yếu vào đường bộ với đội xe cũ kỹ.
Ngành dệt may, một trong những ngành xuất khẩu trọng yếu của Việt Nam, đối mặt với thách thức lớn trong việc quản lý phát thải từ vận tải quốc tế. Theo World Bank, 71% các doanh nghiệp may mặc và 74% doanh nghiệp điện tử hoạt động ở những khu vực có nguy cơ cao về căng thẳng nhiệt, khiến hơn 1.3 triệu nhân viên dễ bị tổn thương[12]. Điều này đòi hỏi việc sử dụng thêm năng lượng cho làm mát, tăng gián tiếp phát thải từ logistics.
Ngành điện tử, vận tải hàng không chiếm tỷ trọng cao hơn do yêu cầu về tốc độ giao hàng, nhưng đây lại là phương thức vận tải có mức phát thải cao nhất. FMCG (Fast-Moving Consumer Goods) đối mặt với thách thức từ giao hàng chặng cuối, đặc biệt khi thương mại điện tử phát triển mạnh. Theo thống kê, thị trường bán lẻ thương mại điện tử Việt Nam năm 2024 đạt 25 tỷ USD, tăng 20% so với năm trước[13].
Về định lượng mức độ phát thải của ngành logistics, ngành giao thông vận tải đóng góp đáng kể vào tổng phát thải quốc gia. Theo Tổng cục Thống kê, các ngành vận tải và logistics đóng góp khoảng 4.8% GDP của đất nước giai đoạn 2015-2021, tỷ lệ này được ghi nhận ở mức 4.65% vào năm 2022 với hơn 80 ngàn doanh nghiệp và hơn 1.3 triệu lao động[14].
Vai trò của công nghệ trong việc đo lường và quản lý phát thải logistics đang được chú trọng. Các hệ thống quản lý vận tải (TMS), tối ưu hóa lộ trình và nền tảng tính toán carbon đang được triển khai rộng rãi hơn.
Những rào cản kìm hãm logistics xanh
Phân tích các "nút thắt" về hạ tầng cho thấy kết nối đa phương thức (đường bộ - đường sắt - đường thủy) yếu kém là một trong những trở ngại lớn nhất.
World Bank đã phê duyệt khoản tín dụng 107 triệu USD để cải thiện năng lực, hiệu quả và an toàn của đường thủy nội địa ở miền Nam Việt Nam. Dự án Phát triển Hành lang đường thủy và logistics miền Nam này nhằm tăng khối lượng hàng hóa và giảm thời gian di chuyển dọc theo các hành lang Đông-Tây và Bắc-Nam quan trọng. Qua đó sẽ giảm khoảng cách vận chuyển giữa cảng lớn nhất Đồng bằng sông Cửu Long tại Cần Thơ và cảng lớn nhất về khối lượng ở Việt Nam tại TPHCM khoảng 30%[15].
Sự chuyển đổi nhiều hàng hóa hơn sang đường thủy nội địa là rất quan trọng để giảm phát thải của ngành giao thông Việt Nam. Vận tải đường bộ bằng xe tải, chiếm khoảng 80% phát thải khí nhà kính của ngành giao thông vận tải tại Việt Nam[16], phát thải gấp 6 lần lượng CO2 so với đường thủy.
Thiếu hụt các chính sách hỗ trợ cụ thể là một rào cản lớn khác. Theo VLA, mặc dù nhận thức về logistics xanh đang tăng lên, nhưng hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa cam kết thực hiện các hành động môi trường đáng kể. Hạn chế về vốn và nhận thức đặc biệt nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Chỉ một phần nhỏ trong số hơn 34,000 công ty logistics trong cả nước đã tích cực thực hiện các sáng kiến chuyển đổi xanh[17]. Chi phí đầu tư ban đầu cho phương tiện và hạ tầng xanh vẫn còn cao, đặc biệt với doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu tài sản thế chấp hoặc dòng tiền để tài trợ cho các khoản đầu tư thích ứng.
Khung chính sách thúc đẩy logistics xanh cho thấy khoảng cách lớn giữa Việt Nam và các nền kinh tế phát triển. Gói "Fit for 55" của EU nhằm giảm ít nhất 55% phát thải ròng khí nhà kính vào năm 2030 so với mức năm 1990, bao gồm các biện pháp nghiêm ngặt đối với ngành giao thông vận tải[18].
Trung Quốc đã triển khai Kế hoạch logistics hiện đại với đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng đa phương thức và công nghệ xanh. Trong Việt Nam mặc dù có các chính sách định hướng tổng thể, việc thực thi và cơ chế hỗ trợ cụ thể vẫn còn hạn chế.
Theo báo cáo của OECD, các rào cản chính bao gồm sự không chắc chắn về quy định, rủi ro tài chính, nhận thức và sự tham gia của khu vực tư nhân. ADB cũng đã công bố gói tài trợ khí hậu 135 triệu USD để hỗ trợ di chuyển điện ở Việt Nam, nhưng quy mô này vẫn còn khiêm tốn so với nhu cầu thực tế[19].
Đồng bộ hóa chuỗi giá trị từ sản xuất xanh đến logistics xanh
Theo World Bank, cần đảm bảo sự phối hợp liên Chính phủ hiệu quả để điều phối quy hoạch đầu tư công giữa các bộ và tỉnh, đảm bảo các dự án hạ tầng, thích ứng biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế được đồng bộ hóa[20].
Giải pháp chiến lược cho doanh nghiệp bao gồm xây dựng lộ trình chuyển đổi đội xe một cách có hệ thống. Tập đoàn Macstar đang dẫn đầu trong vận tải đường thủy nội địa, sử dụng sà lan kết nối Hải Phòng với các tỉnh Bắc Trung Bộ, giúp giảm 70% lượng phát thải so với vận tải đường bộ[21]. Công ty cũng đang đầu tư vào kho thông minh được cung cấp bởi năng lượng tái tạo và khám phá các nỗ lực tái trồng rừng để tạo ra tín chỉ carbon.
Ứng dụng công nghệ số để tối ưu hóa đang được các doanh nghiệp tiên phong triển khai. LEX Vietnam (trước đây là Lazada Logistics) đã hoàn toàn áp dụng các công nghệ tiên tiến như AI, dữ liệu lớn, cảm biến IoT và hệ thống quản lý chuỗi cung ứng để tự động hóa quy trình và nâng cao trải nghiệm người dùng. Hệ thống AI của họ được tích hợp trong các giai đoạn từ dự báo đơn hàng và tối ưu hóa tuyến giao hàng đến quản lý kho và phân tích hành vi người tiêu dùng.
Thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ trong logistics thông qua các nền tảng số để giảm tỷ lệ xe chạy rỗng đang được đẩy mạnh. Mô hình chuyển từ sản phẩm sang dịch vụ, chẳng hạn như thuê pin và mô hình chia sẻ, đang trở nên phổ biến tại Việt Nam.
Cơ hội từ tài chính xanh được mở rộng đáng kể. ADB dự định huy động nguồn lực lên tới 3 tỷ USD cho khoảng 23 dự án tại Việt Nam giai đoạn 2023-2026. Hỗ trợ tích lũy của ADB cho Việt Nam trong 30 năm qua đã lên tới khoảng 18 tỷ USD. ADB cũng đã cam kết 2.1 tỷ USD cho Việt Nam để thực hiện Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) và Cơ chế chuyển đổi năng lượng (ETM)[22].
Vai trò của các định chế tài chính quốc tế trong việc hỗ trợ phát triển logistics bền vững không thể phủ nhận. EXIM Bank của Mỹ đã ký thỏa thuận nhớ 500 triệu USD với Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) để xác định các dự án hạ tầng và năng lượng tái tạo tiềm năng nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh của Việt Nam[23].
[1] https://en.diendandoanhnghiep.vn/green-transformation-enhances-competitiveness-fornbsp-vietnamese-logistics-firms-n43417.html
[2] https://en.diendandoanhnghiep.vn/green-transformation-enhances-competitiveness-fornbsp-vietnamese-logistics-firms-n43417.html
[3] https://www.ndctransportinitiativeforasia.org/news/vietnam-new-emission-reduction-plan-decision1191
[4] https://documents1.worldbank.org/curated/en/099051625143012802/pdf/P176996-37953242-ccab-4fd4-b9da-7178f234adfb.pdf
[5] https://www.dhl.com/discover/en-vn/ship-with-dhl/services/how-dhl-is-reducing-scope-3-emissions-in-vietnam-and-apac
[6] https://www.ndctransportinitiativeforasia.org/news/vietnam-new-emission-reduction-plan-decision1191
[7] https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/overview
[8] https://documents1.worldbank.org/curated/en/165301554201962827/pdf/Strengthening-Vietnam-s-Trucking-Sector-Towards-Lower-Logistics-Costs-and-Greenhouse-Gas-Emissions.pdf
[9] https://vietnamnet.vn/en/vietnam-carrying-out-transport-transformation-to-reduce-emissions-573114.html
[10] https://documents1.worldbank.org/curated/en/165301554201962827/pdf/Strengthening-Vietnam-s-Trucking-Sector-Towards-Lower-Logistics-Costs-and-Greenhouse-Gas-Emissions.pdf
[11] https://www.eria.org/uploads/media/Books/2023-VietNam-2045/21_ch.17-Circular-Economy.pdf
[12] https://documents1.worldbank.org/curated/en/099051625143012802/pdf/P176996-37953242-ccab-4fd4-b9da-7178f234adfb.pdf
[13] https://en.diendandoanhnghiep.vn/green-transformation-enhances-competitiveness-fornbsp-vietnamese-logistics-firms-n43417.html
[14] https://www.undp.org/vietnam/speeches/final-workshop-green-job-assessment-road-transport-sector
[15] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2024/06/21/new-world-bank-program-boosts-sustainable-transport-infrastructure-for-vital-viet-nam-waterways
[16] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2024/06/21/new-world-bank-program-boosts-sustainable-transport-infrastructure-for-vital-viet-nam-waterways
[17] https://vli.edu.vn/en/xanh-hoa-hoat-dong-dich-vu-logistics/
[18] https://co2-iq.com/en/eu-climate-targets-2030
[19] https://www.vingroup.net/en/news/detail/2653/adb-leads-135-million-climate-financing-package-to-support-electric-mobility-in-vietnam
[20] http://vepg.vn/wp-content/uploads/2022/07/CCDR-Full-report_01.07_FINAL-1.pdf
[21] https://en.vneconomy.vn/logistics-sector-to-go-digital-and-green.htm
[22] https://en.vneconomy.vn/towards-a-green-economy.htm
[23] https://vneconomy.vn/techconnect/towards-a-green-economy.htm
Nguyễn Nhiều Lộc
FILI - 09:00:00 13/10/2025
Lịch chốt quyền trả cổ tức bằng tiền của 14 doanh nghiệp
14 doanh nghiệp niêm yết sẽ thực hiện chốt quyền trả cổ tức bằng tiền cho cổ đông.
Lịch chốt quyền cổ tức 6/10– 10/10: Cổ tức tiền mặt cao nhất 150%
Trong tuần này có 14 doanh nghiệp trả cổ tức bằng tiền mặt , mức cao nhất là 150% và thấp nhất là 1,5%.
Theo thống kê, có 19 doanh nghiệp thông báo chốt quyền cổ tức trong tuần 6/10– 10/10. Trong đó, 14 doanh nghiệp trả cổ tức bằng tiền mặt trong tuần này, mức cao nhất là 150% và thấp nhất là 1,5%. Ngoài ra có 3 doanh nghiệp trả cổ tức cổ phiếu, 1 doanh nghiệp phát hành thêm, 1 doanh nghiệp thực hiện quyền mua trong tuần này.
Ngày 8/10 tới đây, CTCP Mía đường Sơn La (SLS – sàn HNX) sẽ chốt danh sách cổ đông chi trả cổ tức niên độ 2024-2025 bằng tiền với tỷ lệ 150%, tương ứng cổ đông sở hữu 1 cổ phiếu sẽ được nhận 15.000 đồng.
Như vậy, với gần 9,8 triệu cổ phiếu đang niêm yết và lưu hành, Mía đường Sơn La sẽ phải chi khoảng 147 tỷ đồng để trả cổ tức cho cổ đông hiện hữu. Ngày giao dịch không hưởng quyền là ngày 7/10, thời gian thanh toán cổ tức dự kiến ngày 28/10.
Trong khi đó, tại ĐHCĐ thường niên mới đây, Công ty đã thông qua kế hoạch dự kiến chia cổ tức niên độ 2024-2025 với tỷ lệ 100% bằng tiền mặt.
Công ty Cổ phần Transimex (HoSE: TMS) cho biết ngày 9/10 tới sẽ là thời điểm chốt quyền nhận cổ tức năm 2024 bằng tiền mặt. Ngày giao dịch không hưởng quyền rơi vào cùng ngày, trong khi thời gian thanh toán dự kiến diễn ra vào 23/10.
Theo phương án đã được thông qua, cổ đông sẽ nhận cổ tức với tỷ lệ 10%, tương ứng 1.000 đồng trên mỗi cổ phiếu. Với hơn 169,3 triệu cp đang lưu hành, Transimex dự kiến chi ra hơn 169,3 tỷ đồng để hoàn tất đợt chi trả này.
Trong cơ cấu cổ đông, 8 nhà đầu tư lớn sẽ là nhóm hưởng lợi nhiều nhất từ đợt chia cổ tức. Dẫn đầu là Công ty Cổ phần Logistics Quốc tế Ryobi Việt Nam với tỷ lệ nắm giữ 20,96%, ước nhận gần 35,5 tỷ đồng. Tiếp theo là Prosper Logistics, sở hữu 17,31% vốn, nhận hơn 29,3 tỷ đồng.
Tổng Công ty Đức Giang - CTCP (UPCoM: MGG) thông báo chốt quyền chia cổ tức bằng tiền cho năm 2024 ngày giao dịch không hưởng quyền là 09/10.
MGG đang lưu hành gần 9 triệu cp trên thị trường. Với tỷ lệ thực hiện 15% - 1 cp nhận 1,500 đồng, Doanh nghiệp dự chi khoảng 13.5 tỷ đồng để hoàn tất đợt chi trả này. Dự kiến, số tiền sẽ đến tay cổ đông vào ngày 21/10.
Cổ đông lớn nhất của MGG là Tập đoàn Dệt may Việt Nam (UPCoM: VGT), sở hữu 35.22% vốn điều lệ, sẽ nhận về 4.75 tỷ đồng. Kế đến là Chứng khoán Phố Wall (HNX: WSS), với tỷ lệ sở hữu 14.82%, dự kiến nhận khoảng 2 tỷ đồng.
5 doanh nghiệp sắp chốt quyền nhận cổ tức bằng tiền, cao nhất 100-150%
Nửa đầu tháng 10/2025, thêm 5 doanh nghiệp niêm yết thông báo lịch chốt quyền trả cổ tức bằng tiền với tỷ lệ hấp dẫn.
1. CTCP Thủy điện Buôn Đôn (Mã: BSA)
Ngày đăng ký cuối cùng: 7/10/2025
Tỷ lệ cổ tức đợt 1 năm 2024: 10% (1.000 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 24/10/2025
2. CTCP Mía đường Sơn La (Mã: SLS)
Ngày đăng ký cuối cùng: 8/10/2025
Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 150% (15.000 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 28/10/2025
3. Tổng CTCP Đức Giang (Mã: MGG)
Ngày đăng ký cuối cùng: 10/10/2025
Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 15% (1.500 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 21/10/2025
4. CTCP TRANSIMEX (Mã: TMS)
Ngày đăng ký cuối cùng: 10/10/2025
Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 10% (1.000 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 23/10/2025
5. CTCP Thủy điện Quế Phong (Mã: QPH)
Ngày đăng ký cuối cùng: 16/10/2025
Tỷ lệ cổ tức bổ sung bằng tiền từ nguồn lợi nhuận sau thuế chưa phân phối đến thời điểm 30/6/2025: 100% (10.000 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 30/10/2025.
CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình vừa tiếp tục giành chiến thắng trong một vụ kiện lớn liên quan đến tranh chấp hợp đồng xây dựng.
Ngày 29/09, HBC cho biết đã nhận được bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng giữa Công ty và CTCP Tập đoàn TMS. Theo đó, Hội đồng xét xử buộc TMS phải thanh toán cho HBC gần 154 tỷ đồng. Khoản này bao gồm hơn 100 tỷ đồng giá trị thi công còn thiếu, 8 tỷ đồng tiền phạt vi phạm hợp đồng và hơn 45 tỷ đồng tiền lãi chậm trả. Ngoài ra, TMS phải gánh thêm án phí và hoàn trả chi phí tố tụng cho HBC.
Đây là kết quả sau quá trình kiện tụng kéo dài liên quan đến dự án TMS Luxury Hotel Quy Nhơn Beach - tổ hợp khách sạn 5 sao cao nhất Quy Nhơn (Bình Định cũ) tại thời điểm xây dựng. Tòa án bác toàn bộ kháng cáo của TMS, giữ nguyên phán quyết sơ thẩm trước đó.
Trước đó chỉ hơn 1 tháng, HBC thông báo thắng kiện CTCP Phát triển Tập đoàn Sunshine tại Tòa án nhân dân TP Hà Nội. Sunshine bị buộc trả cho HBC hơn 461 tỷ đồng, bao gồm toàn bộ chi phí thi công, phạt hợp đồng và lãi chậm trả liên quan đến dự án khu nhà ở cao tầng Nam Thăng Long giai đoạn 2 (Hà Nội).

Tại đại hội thường niên 2025, lãnh đạo HBC cho biết khởi kiện là giải pháp cuối cùng khi đối tác không hợp tác thanh toán. Thời gian qua, tất cả vụ kiện của Doanh nghiệp đều thu được cả gốc lẫn lãi. Riêng khoản nợ của TMS, HBC đã trích lập dự phòng hơn 112 tỷ đồng, thuộc một phần trong số hơn 1.8 ngàn tỷ đồng dự phòng ghi nhận đến cuối tháng 6/2025.
Chủ tịch HĐQT Lê Viết Hải bày tỏ tin tưởng các khoản nợ sẽ được thu hồi do phần lớn chủ đầu tư đều sở hữu tài sản lớn. Doanh nghiệp đặt mục tiêu năm nay có thể hoàn nhập thêm khoảng 200 tỷ đồng dự phòng, đồng thời tập trung quản trị rủi ro và lựa chọn các dự án dân dụng khả thi tại những đô thị lớn.
Tổng Giám đốc Lê Văn Nam cho biết kế hoạch thu hồi toàn bộ hơn 1.8 ngàn tỷ đồng dự phòng có thể hoàn tất trong 3-5 năm, kỳ vọng đẩy nhanh xuống còn 3-4 năm. Ngoài ra, HBC cũng dự tính thu về khoảng 190 tỷ đồng bằng tài sản trong năm nay, nhằm củng cố dòng tiền và cải thiện tình hình tài chính.
Giai đoạn khó khăn của bất động sản cùng đại dịch COVID-19 được cho là nguyên nhân khiến HBC nhiều năm thua lỗ nặng, với mức lỗ kỷ lục hơn 2.5 ngàn tỷ đồng năm 2022 và hơn 1.1 ngàn tỷ đồng năm 2023. Nửa đầu 2025, Doanh nghiệp có lãi ròng hơn 56 tỷ đồng, song vẫn lỗ lũy kế trên 2.2 ngàn tỷ đồng, mới thực hiện khoảng 17% mục tiêu cả năm.
Cuối quý 2, phải thu ngắn hạn từ khách hàng của HBC xấp xỉ 6.7 ngàn tỷ đồng, nhiều nhất là từ CTCP Máy xây dựng Matec (gần 570 tỷ đồng) và CTCP Gamuda Land (khoảng 467 tỷ đồng).
HBC lãi khiêm tốn nửa đầu năm 2025 trong khi các khoản phải thu ngắn hạn vẫn trên 10 ngàn tỷ đồng
Tử Kính
FILI - 13:57:43 30/09/2025
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。