行情
新聞
分析
使用者
快訊
財經日曆
學習
數據
- 名稱
- 最新值
- 前值












VIP跟單
所有跟單
所有比賽



法國貿易帳 (季調後) (10月)公:--
預: --
歐元區就業人數年增率 (季調後) (第三季度)公:--
預: --
加拿大兼職就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大失業率 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大全職就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大就業參與率 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
加拿大就業人數 (季調後) (11月)公:--
預: --
前: --
美國PCE物價指數月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國個人收入月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國核心PCE物價指數月增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國PCE物價指數年增率 (季調後) (9月)公:--
預: --
前: --
美國核心PCE物價指數年增率 (9月)公:--
預: --
前: --
美國個人支出月增率 (季調後) (9月)公:--
預: --
美國五至十年期通膨率預期 (12月)公:--
預: --
前: --
美國實際個人消費支出月增率 (9月)公:--
預: --
美國當週鑽井總數公:--
預: --
前: --
美國當周石油鑽井總數公:--
預: --
前: --
美國消費信貸 (季調後) (10月)公:--
預: --
中國大陸外匯存底 (11月)公:--
預: --
前: --
日本貿易帳 (10月)公:--
預: --
前: --
日本名義GDP季增率修正值 (第三季度)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額年增率 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸出口額 (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸貿易帳 (人民幣) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸出口額年增率 (美元) (11月)公:--
預: --
前: --
中國大陸進口額年增率 (美元) (11月)公:--
預: --
前: --
德國工業產出月增率 (季調後) (10月)公:--
預: --
歐元區Sentix投資者信心指數 (12月)公:--
預: --
前: --
加拿大全國經濟信心指數公:--
預: --
前: --
英國BRC同店零售銷售年增率 (11月)--
預: --
前: --
英國BRC總體零售銷售年增率 (11月)--
預: --
前: --
澳洲隔夜拆借利率--
預: --
前: --
澳洲央行利率決議
澳洲聯儲主席布洛克召開貨幣政策記者會
德國出口月率 (季調後) (10月)--
預: --
前: --
美國NFIB小型企業信心指數 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
墨西哥12個月通膨年增率 (CPI) (11月)--
預: --
前: --
墨西哥核心消費者物價指數 (CPI) 年增率 (11月)--
預: --
前: --
墨西哥PPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
美國當周紅皮書同店零售銷售指數年增率--
預: --
前: --
美國JOLTS職位空缺 (季調後) (10月)--
預: --
前: --
中國大陸M1貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸M0貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸M2貨幣供應量年增率 (11月)--
預: --
前: --
美國EIA當年短期前景原油產量預期 (12月)--
預: --
前: --
美國EIA次年天然氣產量預期 (12月)--
預: --
前: --
美國EIA次年短期原油產量預期 (12月)--
預: --
前: --
EIA月度短期能源展望報告
美國當週API汽油庫存--
預: --
前: --
美國當週API庫欣原油庫存--
預: --
前: --
美國當週API原油庫存--
預: --
前: --
美國當週API精煉油庫存--
預: --
前: --
韓國失業率 (季調後) (11月)--
預: --
前: --
日本路透短觀非製造業景氣判斷指數 (12月)--
預: --
前: --
日本路透短觀製造業景氣判斷指數 (12月)--
預: --
前: --
日本國內企業商品價格指數月增率 (11月)--
預: --
前: --
日本國內企業商品價格指數年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸PPI年增率 (11月)--
預: --
前: --
中國大陸CPI月增率 (11月)--
預: --
前: --
意大利工業產出年增率 (季調後) (10月)--
預: --
前: --


無匹配數據



Trước cam kết Net Zero vào năm 2050, các doanh nghiệp toàn cầu và tại Việt Nam đang đối mặt với thách thức ngày càng lớn từ việc quản lý dấu chân carbon trong chuỗi cung ứng. Đặc biệt, bao bì - một thành phần được đánh giá thấp trong tổng dấu chân carbon của sản phẩm - đang trở thành điểm nghẽn có thể quyết định thành bại của các cam kết môi trường và tiếp cận nguồn vốn xanh.
Mối liên kết giữa bao bì và dấu chân carbon bị đánh giá thấp trong chuỗi cung ứng
Theo báo cáo của Ellen MacArthur Foundation, việc áp dụng các nguyên tắc kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực bao bì có thể góp phần giảm thiểu phát thải khí nhà kính dọc theo chuỗi cung ứng.
Bao bì chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dấu chân carbon của sản phẩm, đặc biệt là thông qua phát thải Scope 3 - những phát thải gián tiếp từ hoạt động mua hàng hóa và xử lý cuối vòng đời sản phẩm[1].
Trong khi mô hình tuyến tính truyền thống (sản xuất - sử dụng - thải bỏ) gây ra phát thải carbon từ việc khai thác nguyên liệu thô và xử lý chất thải, bao bì tuần hoàn được thiết kế để tái sử dụng, tái chế hoặc phân hủy sinh học có thể giảm thiểu tác động môi trường.
Theo OECD, nếu không có các chính sách mạnh mẽ hơn, việc sử dụng nhựa toàn cầu dự kiến sẽ tăng gần gấp ba lần từ 460 triệu tấn năm 2019 lên 1,231 triệu tấn vào năm 2060, đồng thời lượng rò rỉ nhựa ra môi trường sẽ tăng gấp đôi[2].
Mối liên hệ giữa việc chậm chuyển đổi sang bao bì tuần hoàn với rủi ro không đạt mục tiêu giảm phát thải của doanh nghiệp trở nên rõ ràng khi xem xét các cam kết quốc tế. Hiệp ước nhựa toàn cầu hiện được đàm phán và Kế hoạch hành động kinh tế tuần hoàn của EU đều xác định bao bì là một đòn bẩy quan trọng để đạt được các mục tiêu khí hậu. Ellen MacArthur Foundation thông qua Global Commitment đã huy động hơn 1,000 tổ chức trên toàn thế giới, bao gồm các doanh nghiệp đại diện cho 20% tổng sản lượng bao bì nhựa toàn cầu, cam kết chung về tầm nhìn kinh tế tuần hoàn cho nhựa[3].
Nghiên cứu của McKinsey cho thấy các công ty tiêu dùng nhanh có tới 90% tác động môi trường và hơn 80% lượng phát thải đến từ chuỗi cung ứng của họ, trong đó bao bì đóng vai trò then chốt[4]. Đối với Unilever, nguyên liệu thô và bao bì chiếm hơn 60% phát thải trực tiếp trong chuỗi giá trị, đòi hỏi sự tập trung nỗ lực giảm thiểu[5].
Thực trạng bao bì tuần hoàn tại Việt Nam
Việt Nam hiện đang đối mặt với thách thức quản lý chất thải nhựa. Theo World Bank, mỗi năm ước tính có 2.8-3.1 triệu tấn chất thải nhựa được thải ra trên đất liền tại Việt Nam, trong đó ít nhất 10% lọt ra đại dương[6].
Việt Nam xếp thứ 5 thế giới về lượng chất thải nhựa quản lý kém, với tỷ lệ chất thải nhựa quản lý kém là 54%, cao hơn 22 điểm phần trăm so với mức trung bình toàn cầu[7].
Nghiên cứu của World Ban cho biết Việt Nam chỉ tái chế được khoảng 33% tổng khối lượng của các loại nhựa chính như PET, HDPE, LDPE và PP[8]. Một trong những nguyên nhân là do phương thức xử lý chất thải sau thu gom: phần lớn rác thải sinh hoạt đô thị tại Việt Nam được xử lý bằng cách chôn lấp trực tiếp mà không qua bất kỳ khâu xử lý sơ bộ nào. Việc này tạo ra rào cản lớn cho phát triển kinh tế tuần hoàn và thu hồi tài nguyên từ bao bì.
Các điểm nghẽn chính trong hệ thống bao bì tuần hoàn Việt Nam gồm hạ tầng thu gom và phân loại manh mún, công nghệ tái chế cấp thấp (downcycling), thiếu thị trường cho vật liệu tái chế. Hệ thống tái chế phi chính thức chiếm ưu thế, trong đó tại Đà Nẵng, công nhân tái chế phi chính thức có thể thu hồi vật liệu tái chế tương đương 6-7.5% tổng lượng chất thải được đưa đến bãi chôn lấp[9].
Việc triển khai Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) theo Nghị định 08/2022/NĐ-CP đã bắt đầu từ tháng 1/2024 với các tỷ lệ tái chế bắt buộc tối thiểu khác nhau: bao bì PET cứng (22%), bao bì giấy carton (20%), bao bì nhôm (22%), các loại bao bì nhựa cứng khác (10-15%)[10]. Tuy nhiên, thách thức đặt ra là việc phân loại chất thải tại nguồn không hiệu quả.
Một số doanh nghiệp như Pro Vietnam Packaging Recycling JSC đạt được kết quả đáng ghi nhận, thu gom và tái chế hơn 64,000 tấn bao bì năm 2024, tăng từ 3,000 tấn năm 2022[11]. Tuy nhiên, con số này vẫn hạn chế so với tổng lượng 3.8 triệu tấn chất thải nhựa hàng năm[12].
Unilever đặt mục tiêu trên toàn cầu đến năm 2025 sẽ giảm một nửa lượng nhựa nguyên sinh và đảm bảo 100% bao bì có thể tái chế hoặc phân hủy. Tại Việt Nam, công ty hợp tác với một số doanh nghiệp để thu gom và tái chế nhựa. Ellen MacArthur Foundation ghi nhận Unilever đã tăng tỷ lệ nhựa tái chế sau tiêu dùng (PCR) trong nhiều sản phẩm, với một số dòng đạt 100% PCR. Dù mô hình này giúp tạo thị trường cho vật liệu tái chế, thách thức cốt lõi vẫn là nguồn cung PCR chất lượng cao chưa ổn định và chi phí cao hơn nhựa nguyên sinh, phản ánh điểm nghẽn về hạ tầng của Việt Nam[13].
Nút thắt ESG: Khi bao bì quyết định chi phí vốn và xuất khẩu
Theo PwC, Việt Nam là một trong 5 quốc gia châu Á đang đi đúng hướng để đạt được các cam kết về giảm phát thải đến 2030, nhưng điều này đòi hỏi sự thay đổi căn bản trong cách tiếp cận quản lý chất thải và chuỗi cung ứng[14].
Theo nghiên cứu của các chuyên gia, hơn 90% phát thải khí nhà kính của doanh nghiệp nằm trong các hoạt động Scope 3, bao gồm khai thác nguyên liệu thô, hoạt động của nhà cung cấp, logistics, sử dụng sản phẩm và xử lý cuối đời. Điều này có nghĩa là việc không quản lý được vòng đời bao bì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đạt được mục tiêu giảm phát thải tổng thể[15].
Rủi ro kinh doanh từ việc bao bì tuần hoàn kém phát triển bao gồm các hàng rào kỹ thuật tại thị trường xuất khẩu. EU yêu cầu 50% vật liệu bao bì nhựa phải được tái chế vào năm 2025 và 55% vào năm 2030[16], trong khi cấm xuất khẩu chất thải nhựa đến các quốc gia không phải thành viên OECD từ năm 2026, có thể ảnh hưởng đến khoảng 140 kiloton chất thải nhập khẩu hàng năm vào Malaysia và Việt Nam[17].
Bên cạnh đó, các sản phẩm tái chế của Việt Nam đang gặp khó khi thâm nhập các thị trường như EU do các thủ tục chứng nhận phức tạp và yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt.
Để đạt được mục tiêu Net Zero, Việt Nam cần khoảng 368 tỷ USD, đòi hỏi sự minh bạch từ các doanh nghiệp để huy động nguồn tài chính bền vững[18]. Việc thiếu minh bạch trong quản lý vòng đời bao bì và chuỗi cung ứng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ số phát triển bền vững và khả năng tiếp cận các nguồn tài trợ này.
Tác động đến uy tín thương hiệu cũng ngày càng rõ rệt khi người tiêu dùng và nhà đầu tư quan tâm hơn đến tính bền vững. Khảo sát năm 2024 của Vietnam Report cho thấy 92.1% người tiêu dùng quan tâm đến tác động môi trường của bao bì, thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức và kỳ vọng của thị trường[19].
Bao bì: Từ gánh nặng chi phí đến động lực tăng trưởng bền vững
Để biến bao bì từ “gánh nặng carbon” thành lợi thế cạnh tranh bền vững, các doanh nghiệp Việt Nam cần tích hợp chiến lược bao bì vào tổng thể kinh doanh thông qua đầu tư nghiên cứu và phát triển vật liệu, thiết kế để tái chế (Design for Recycling), và xây dựng các mô hình tái sử dụng (refill/reuse). Theo Ellen MacArthur Foundation, việc tăng hàm lượng tái chế trong bao bì có thể giữ một thùng dầu trong lòng đất mỗi hai giây, tương đương hơn 23 triệu thùng dầu mỗi năm và tránh được 3.4 triệu tấn CO2 mỗi năm[20].
Về mặt chính sách, Việt Nam cần hoàn thiện cơ chế EPR để tạo thị trường tái chế hiệu quả thông qua việc ban hành tiêu chuẩn quốc gia về bao bì xanh và hàm lượng tái chế bắt buộc. Nghị định 05/2025/NĐ-CP đã làm rõ các thực thể chịu nghĩa vụ EPR và tăng ngưỡng miễn trừ từ 20 tỷ đồng lên 30 tỷ đồng doanh thu bán sản phẩm[21].
Quyết định 222/QĐ-TTg đặt mục tiêu tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 47% tổng năng lượng sơ cấp, đảm bảo 95% chất thải rắn đô thị và 80% chất thải nông thôn được thu gom và xử lý, giảm việc chôn lấp trực tiếp xuống dưới 50%, và cải thiện tỷ lệ tái chế chất thải công nghiệp và hộ gia đình[22].
Cơ hội hợp tác công-tư (PPP) trong việc xây dựng hạ tầng thu gom, phân loại, tái chế quy mô lớn đang được thúc đẩy thông qua các dự án như Cơ sở thu hồi vật liệu (MRF) tại thành phố Quy Nhơn do UNDP triển khai. Dự án này không chỉ biến chất thải thành tài nguyên có giá trị mà còn cải thiện đáng kể cuộc sống của công nhân tái chế phi chính thức, tích hợp họ vào hệ thống quản lý chất thải.
Thị trường nhựa tái chế Việt Nam dự kiến sẽ tăng từ 290.6 ngàn tấn năm 2024 lên 561.7 ngàn tấn vào năm 2033, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) 7.22%. Sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài dự kiến sẽ làm tăng tổng công suất thiết kế của các cơ sở tái chế PET lên gấp 4 lần trong năm 2023[23].
Dự báo thị trường nhựa tái chế Việt NamNgàn tấn
Việc định vị lại bao bì từ gánh nặng carbon thành cơ hội đổi mới đòi hỏi sự phối hợp giữa các bên liên quan. Các doanh nghiệp cần thiết lập quan hệ đối tác với đối tác địa phương có mạng lưới thu gom rộng rãi, kết nối với các công ty dệt may và cơ sở xử lý chất thải. Đồng thời, việc tận dụng chuyên môn của các công ty tư vấn nghiên cứu địa phương để điều hướng môi trường kinh doanh và khung pháp lý của Việt Nam cũng cần thiết.
Việc chuyển đổi từ mô hình "lấy-làm-thải" sang kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực bao bì giúp giảm thiểu rủi ro môi trường tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững.
[1] https://content.ellenmacarthurfoundation.org/m/3eac8667edd240cc/original/Completing-the-picture-How-the-circular-economy-tackles-climate-change.pdf
[2] https://www.oecd.org/content/dam/oecd/en/publications/support-materials/2022/02/global-plastics-outlook_a653d1c9/Global%20plastics%20outlook%20-%20policy%20scenarios.pdf
[3] https://content.ellenmacarthurfoundation.org/m/528a7cd095787dec/original/The-Global-Commitment-2024-Progress-Report.pdf
[4] https://www.zurich.com/knowledge/topics/climate-change/how-to-reduce-carbon-in-our-supply-chains
[5] https://www.weforum.org/stories/2022/11/scope3-supply-chain-emissions-cop27-ikea-philips-zf-unilever/
[6] https://documents1.worldbank.org/curated/en/099735006282232159/pdf/P16730702478dc09c0a53403286ba348755.pdf
[7] https://www.switch-asia.eu/site/assets/files/4399/plastic_policies_vn_final.pdf
[8] https://documents1.worldbank.org/curated/en/441451632841781531/pdf/Market-Study-for-Vietnam-Plastics-Circularity-Opportunities-and-Barriers.pdf
[9] https://www.undp.org/sites/g/files/zskgke326/files/2023-02/UNDP%20Circular%20Economy%20handbook%20%5Bshort%5D%20-%20Eng.pdf
[10] https://epr.monre.gov.vn/vi/bai-viet/tong-hop-he-thong-hoa-quy-dinh-phap-luat--ve-trach-nhiem-tai-che-san-pham-bao-bi-cua-nha-san-xuat-nhap-khau/
[11] https://en.mae.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin-Eng.aspx?ItemID=8977
[12] https://www.switch-asia.eu/site/assets/files/4399/plastic_policies_vn_final.pdf
[13] https://www.unilever.com/news/news-search/2024/how-were-aiming-for-greater-impact-with-updated-plastic-goals/
[14] https://www.pwc.com/vn/en/publications/2024/energy-transition-in-vietnam.pdf
[15] https://nexioprojects.com/supply-chain-emissions-the-hidden-impact-of-your-carbon-footprint/
[16] https://b-company.jp/plastic-recycling-ascendant-trends-and-opportunities-in-a-sustainable-future-in-vietnam/
[17] https://www.bain.com/insights/building-a-resilient-plastic-circularity-framework-in-southeast-asia/
[18] https://eurochamvn.org/wp-content/uploads/2024/01/2.-ESG-Disclosure-Brief-Research-July-2024.pdf
[19] https://vietnamnews.vn/environment/1722857/green-shift-opens-new-chapter-for-viet-nam-s-packaging-and-recycling-industries.html
[20] https://content.ellenmacarthurfoundation.org/m/528a7cd095787dec/original/The-Global-Commitment-2024-Progress-Report.pdf
[21] https://kpmg.com/vn/en/home/insights/2025/02/key-amendments-to-vietnam-environment-protection-regulations.html
[22] https://www.vietnam-briefing.com/news/vietnam-national-action-plan-circular-economy-2035.html/
[23] https://www.imarcgroup.com/vietnam-recycled-plastics-market
Nguyễn Nhiều Lộc
FILI - 09:00:00 18/10/2025



Cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 của Việt Nam đã tạo ra một cuộc đua tranh giành nguồn lực tài chính và công nghệ xanh chưa từng có. Tuy nhiên, xu hướng phân bổ đầu tư hiện tại đang bộc lộ một khoảng cách ngày càng lớn giữa khu vực đô thị và nông thôn - hiện tượng mà các chuyên gia quốc tế gọi là "chênh lệch carbon đô thị - nông thôn" (urban-rural carbon divide).
Mặc dù nông thôn chiếm phần lớn diện tích và dân số, nhưng phần lớn ngân sách đầu tư khí hậu tại nông thôn được phân bổ cho các dự án thích ứng, trong khi các hoạt động giảm thiểu phát thải tập trung chủ yếu tại các khu vực đô thị. Điều này đặt ra câu hỏi quan trọng: liệu Việt Nam có thể đạt được mục tiêu Net Zero mà không giải quyết được "khoảng lặng nông thôn" trong chiến lược khí hậu quốc gia?
Bức tranh giảm phát thải lệch pha: Khi đô thị là tâm điểm
Đóng góp do Quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam đã nâng mức cam kết giảm phát thải từ 9% lên 15.8% so với kịch bản thông thường (BAU) vào năm 2030 mà không cần hỗ trợ quốc tế, và lên đến 43.5% với hỗ trợ quốc tế[1]. Tuy nhiên, việc triển khai thực tế lại cho thấy sự mất cân bằng rõ rệt trong phân bổ nguồn lực giữa các khu vực.
Theo phân tích từ 29 tỉnh thành trong giai đoạn 2016-2020, tổng ngân sách đầu tư khí hậu trung bình đạt khoảng 18,000 tỷ đồng mỗi năm, tăng từ 15,000 tỷ đồng năm 2016 lên gần 24,000 tỷ đồng năm 2020. Đáng chú ý, hơn 90% ngân sách này dành cho các hoạt động thích ứng, trong khi các dự án giảm thiểu phát thải - đặc biệt là năng lượng tái tạo - chủ yếu do khu vực tư nhân thực hiện và tập trung tại khu vực đô thị[2].
Xu hướng này không chỉ riêng ở Việt Nam, báo cáo của OECD về tài chính khí hậu tại Đông Nam Á cho thấy Indonesia, Việt Nam và Philippines là ba nước nhận nhiều tài chính khí hậu nhất trong khu vực, với lần lượt 7.5 tỷ USD, 6.6 tỷ USD và 3.6 tỷ USD tương ứng. Tuy nhiên, 82% nguồn tài chính này được phân bổ cho các dự án giảm thiểu, chủ yếu trong lĩnh vực năng lượng (40%) và giao thông (24%), trong khi nông nghiệp chỉ chiếm 10%[3].
Sự mất cân bằng này lớn hơn khi xét đến vai trò của nông nghiệp. Theo các ước tính gần đây, ngành nông nghiệp đóng góp khoảng 17.6% tổng phát thải khí nhà kính của Việt Nam vào năm 2023, tiếp tục là ngành phát thải lớn thứ hai nền kinh tế. Trong đó, trồng lúa chiếm gần một nửa (48%), theo sau là chăn nuôi (15%)[4].
Thực tế, một số dự án tiên phong đã chứng minh hiệu quả của việc đầu tư vào giảm phát thải nông thôn. Chương trình Biogas của Việt Nam lĩnh vực chăn nuôi đã được quốc tế công nhận về đóng góp giảm phát thải khí nhà kính, với việc bán được 3,072,265 tín chỉ carbon, thu về 8.1 triệu USD và mang lại lợi ích cho 1 triệu người dân tại 53 tỉnh thành[5].
Dự án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long cũng cho thấy kết quả với việc giảm chi phí 20-30%, tăng năng suất 10%, tăng thu nhập nông dân 20-25% và giảm phát thải trung bình 5-6 tấn CO2 tương đương mỗi hecta[6].
Giải mã nguyên nhân của "khoảng lặng nông thôn"
“Khoảng lặng nông thôn” xuất phát từ ba nhóm nguyên nhân chính: chính sách, tài chính và công nghệ.
Về mặt chính sách, các cơ chế ưu đãi hiện tại có xu hướng "thiên vị" các dự án quy mô lớn tại khu vực đô thị. Theo báo cáo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), các ngân hàng gặp khó khăn khi phân loại, sàng lọc và báo cáo tín dụng xanh do thiếu tiêu chí định lượng cụ thể. Đặc biệt, hướng dẫn về quản lý rủi ro xã hội - một yêu cầu quan trọng để đánh giá tín dụng xanh - chưa được ban hành, khiến các tổ chức tín dụng thiếu căn cứ pháp lý để xây dựng hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Rào cản tài chính còn rõ nét hơn, báo cáo của CARE và SNV cho thấy 45% hộ gia đình nông thôn cho biết nhu cầu tín dụng chưa được đáp ứng năm 2023, với nhu cầu đáng kể về các khoản vay dưới 100 triệu đồng và trên 500 triệu đồng[7]. Các khoản vay từ Ngân hàng Chính sách Xã hội (VBSP) có tính cứng nhắc và chỉ nhắm đến các hộ nghèo, khiến nhu cầu nông nghiệp rộng lớn hơn không được đáp ứng. Chi phí hành chính cao và sự phụ thuộc vào việc đến ngân hàng trực tiếp khiến việc tiếp cận các khoản vay trở nên khó khăn đối với cộng đồng nông thôn.
Đáng chú ý, dù tín dụng xanh đã đạt gần 640,000 tỷ đồng vào đầu năm 2024, cấu trúc dòng vốn vẫn lệch pha. Gần 45% chảy vào các dự án năng lượng, trong khi nông nghiệp, dù chiếm hơn 30%, vẫn chưa đủ sức hấp thụ vốn vào các mô hình nhỏ lẻ[8]. World Bank cảnh báo, nếu không hành động, biến đổi khí hậu có thể thổi bay 12-14.5% GDP mỗi năm vào 2050, cho thấy sự cấp bách của việc huy động vốn cho nông thôn[9].
Về công nghệ, lỗ hổng trong hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm định (MRV) cho các hoạt động giảm phát thải trong nông nghiệp và lâm nghiệp là rào cản lớn[2].
So sánh với các mô hình quốc tế thành công, chính sách Nông nghiệp Chung (CAP) cải cách của EU đã gắn trợ cấp tài chính trực tiếp với hiệu suất sinh thái thông qua sáu chương trình sinh thái (eco-schemes) mới, tạo ra động lực kinh tế trực tiếp cho nông dân. Đan Mạch là quốc gia đầu tiên áp dụng hệ thống định giá carbon có mục tiêu cho phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp, với thuế khí metan từ chăn nuôi ở mức 120 krone Đan Mạch (16 euro) mỗi tấn CO2 tương đương vào năm 2030, tăng lên 300 krone (40 euro) vào năm 2035[10].
Tại Ấn Độ, chương trình PM-KUSUM đã hỗ trợ nông dân lắp đặt 2 triệu máy bơm nước chạy bằng năng lượng mặt trời độc lập và năng lượng hóa 1.5 triệu máy bơm nông nghiệp kết nối lưới điện. Chương trình cung cấp hỗ trợ tài chính trung ương 30% chi phí chuẩn hoặc chi phí đấu thầu (tùy theo mức nào thấp hơn), Chính phủ bang cung cấp ít nhất 30% trợ cấp, và nông dân chỉ cần đóng góp tối đa 40% còn lại[11].
Hệ quả và những cơ hội bị bỏ lỡ
"Khoảng lặng nông thôn" là vấn đề về công bằng xã hội tạo ra những hệ quả kinh tế và chiến lược.
Theo báo cáo của World Bank năm 2025, trong trường hợp không có các hành động thích ứng, tác động khí hậu có thể làm giảm sản lượng kinh tế của Việt Nam tới 12.5% vào năm 2050 so với dự báo cơ sở. Một cuộc khảo sát năm 2024 của World Bank cho thấy khoảng ba phần tư các nhà sản xuất trong ngành may mặc và điện tử - hai ngành xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam - hoạt động tại các khu vực đối mặt với căng thẳng nhiệt (heat stress) đáng kể, đặt hơn 1.3 triệu công nhân trước rủi ro[12].
Về cơ hội bị bỏ lỡ, tiềm năng kinh tế từ thị trường tín chỉ carbon nông thôn rất lớn. Theo tính toán, chỉ riêng ngành nông nghiệp Việt Nam có thể đạt 57 triệu tín chỉ carbon mỗi năm (tương đương với việc hấp thụ 57 triệu tấn CO2), có thể được bán cho các tổ chức quốc tế với giá khoảng 5 USD/tín chỉ, mang lại gần 300 triệu USD hàng năm[13].
Năm 2023, Việt Nam lần đầu tiên bán 10.3 triệu tín chỉ carbon rừng thông qua World Bank với giá 5 USD/tấn, thu về 51.5 triệu USD. Ông Võ Xuân Vinh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH), hy vọng Việt Nam sẽ tham gia thị trường tín chỉ carbon toàn cầu và xuất khẩu thêm 5 triệu tín chỉ carbon nữa trong giai đoạn 2024-2025, nâng tổng số tín chỉ carbon đã bán lên 25 triệu[14].
Việt Nam đã nhận được 33.3 triệu USD (có thể tăng lên 40 triệu USD) từ Quỹ Tài sản Carbon Chuyển đổi (TCAF) để hỗ trợ thực hiện dự án phát triển 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long[15].
Trong lĩnh vực lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT đã ký Thư ý định với tổ chức Emergent Forest Finance Accelerator về việc chuyển giao kết quả giảm phát thải khí nhà kính từ 4.26 triệu hecta rừng tại các vùng Trung Trung Bộ và Tây Nguyên cho LEAF Coalition trong giai đoạn 2022-2026. Với hơn 14 triệu hecta rừng, lĩnh vực lâm nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu[16].
Lấp đầy "khoảng lặng": Chiến lược cân bằng cho một Việt Nam Net Zero toàn diện
Để khắc phục "khoảng lặng nông thôn", Việt Nam cần một chiến lược đa chiều bao gồm cải cách chính sách, đổi mới tài chính và phát triển công nghệ.
Về chính sách vĩ mô, cần lồng ghép tiêu chí "chuyển dịch công bằng cho nông thôn" vào Chiến lược Tăng trưởng Xanh quốc gia và các quy hoạch ngành. Theo Quyết định 21/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí môi trường và xác nhận dự án đầu tư trong danh mục phân loại xanh, cần có hướng dẫn chi tiết để triển khai. Đồng thời, áp dụng chính sách miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ hoạt động cho vay xanh.
Về giải pháp tài chính, cần thiết lập cơ chế bù lãi suất hoặc trợ cấp lãi suất để giảm chi phí vay cho các dự án nông nghiệp xanh, hữu cơ hoặc tuần hoàn, và thành lập Quỹ Bảo lãnh Tín dụng Xanh để giúp chia sẻ rủi ro và hỗ trợ ngân hàng cho vay đảm bảo trên quy mô lớn hơn. Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) đã cam kết đầu tư kỷ lục tại Việt Nam trong năm tài chính 2024, với tổng cam kết vốn hơn 1.6 tỷ USD, trong đó hơn 750 triệu USD là tài chính dài hạn. IFC đã hỗ trợ SeABank phát hành trái phiếu xanh đầu tiên của ngân hàng tư nhân tại Việt Nam và tạo điều kiện cho Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) đầu tư 75 triệu USD vào trái phiếu khí hậu của SeABank[17].
Về phát triển công nghệ, ưu tiên đầu tư hạ tầng lưới điện thông minh để tích hợp các nguồn năng lượng phân tán và triển khai nền tảng số cho việc đăng ký và giao dịch tín chỉ carbon từ nông nghiệp. Việt Nam dự kiến vận hành thị trường carbon trong nước chính thức từ năm 2028, với khoảng 150 doanh nghiệp phát thải lớn trong các ngành sản xuất sắt thép, xi măng và nhiệt điện sẽ nhận hạn ngạch phát thải miễn phí trong giai đoạn thí điểm[18].
Vai trò của hợp tác công-tư (PPP) là then chốt trong việc kêu gọi doanh nghiệp lớn "dẫn dắt" chuỗi cung ứng xanh. Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, cần cải thiện năng lực quản trị và chuyên môn của đội ngũ cán bộ, đặc biệt về tiêu chí môi trường, xã hội và khí hậu. Gần đây, ngân hàng trung ương đã công bố cẩm nang về hệ thống quản lý môi trường và xã hội để hỗ trợ các tổ chức tín dụng xác định và kiểm soát rủi ro ESG trong cung cấp tín dụng[19].
Để thành công, Việt Nam cần học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế. Mô hình "4Ps" (hợp tác giữa khu vực công, tư nhân và sản xuất) đã được áp dụng thành công tại Tây Nguyên trong dự án cà phê bền vững, giúp đào tạo hơn 3,355 nông dân về kỹ thuật sản xuất cà phê tốt hơn và nông lâm kết hợp. Dự án đã giới thiệu cây ăn quả tạo bóng mát (macadamia và hồng) cải thiện chất lượng và khả năng chống chịu của cà phê, với 75% nông dân trong khu vực mục tiêu tham gia tự nguyện[20].
[1] https://www.climatechange.vn/project/updated-nationally-determined-contribution-ndc-in-2022-realizing-vietnams-commitment-to-achieving-net-zero-ghg-emissions-by-2050/
[2] https://www.undp.org/sites/g/files/zskgke326/files/migration/vn/CPEIR-Main-Report-all-final-EN-Final.pdf
[3] https://uclg-aspac.org/wp-content/uploads/2024/09/2024_GCoM_SEA_Climate_Finance_Outlook.pdf
[4] https://b-company.jp/reducing-greenhouse-gas-emissions-in-agriculture-in-vietnam-emerging-technologies/
[5] https://en.vietnamplus.vn/emission-reduction-brings-carbon-credit-opportunity-for-agricultural-sector-post312937.vnp
[6] https://wtocenter.vn/chuyen-de/27039-vietnam-steps-up-efforts-to-reduce-agricultural-carbon-footprint
[7] https://eurochamvn.org/wp-content/uploads/2024/08/September-2024-Adaptation-Finance-for-Agriculture.pdf
[8] https://www.pwc.com/vn/en/insights-hub/perspective-blog/green-finance-development.html
[9] https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/brief/key-highlights-country-climate-and-development-report-for-vietnam
[10] https://ieep.eu/publications/denmarks-incoming-eu-presidency-a-window-of-opportunity-for-discussing-climate-policy-in-agriculture/
[11] https://ieefa.org/sites/default/files/2022-05/Solar-Powered-Irrigation-Would-Accelerate-Indias-Energy-Transition_June-2021.pdf
[12] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2025/05/22/maintaining-momentum-for-institutional-reforms-and-promoting-greener-development-can-help-viet-nam-achieve-high-income-s
[13] https://isats.vn/en/news/news/carbon-credit-trading-great-potential-in-agriculture-15.html
[14] https://vietnamnet.vn/en/vietnam-to-sell-5-million-more-carbon-credits-in-2024-2025-period-2314291.html
[15] https://en.mae.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin-Eng.aspx?ItemID=8404
[16] https://en.vietnamplus.vn/emission-reduction-brings-carbon-credit-opportunity-for-agricultural-sector-post312937.vnp
[17] https://www.ifc.org/en/pressroom/2024/ifc-s-record-climate-financing-in-viet-nam-supports-green-transition-private-sector-resilience
[18] https://en.mae.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin-Eng.aspx?ItemID=8688
[19] https://baochinhphu.vn/dot-pha-trong-phat-trien-tin-dung-xanh-va-tai-chinh-ben-vung-102250521164442426.htm
[20] https://eurochamvn.org/wp-content/uploads/2024/08/September-2024-Adaptation-Finance-for-Agriculture.pdf
Nguyễn Nhiều Lộc
FILI - 09:00:00 27/09/2025



Tại Diễn đàn cấp cao Cố vấn tài chính Việt Nam (VWAS) chủ đề “Kỷ nguyên mới, sức bật mới” tổ chức chiều 25/09, ông Bùi Hoàng Hải - Phó Chủ tịch UBCKNN cho rằng, nâng hạng thị trường không chỉ là đích đến mà mục tiêu là cải cách thị trường ngày càng minh bạch, ổn định, vận hành hiệu quả, nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận.

Chuyên công tác thành công ngoài mong đợi
Sau chuyến công tác của Bộ Tài chính nhằm thúc đẩy đầu tư cả về trực tiếp và gián tiếp, tại các thị trường lớn như London (Vương Quốc Anh) và Milan (Ý), ông Bùi Hoàng Hải - Phó Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã có những chia sẻ cụ thể.
Chia sẻ những thông tin cập nhật về chuyến công tác, ông Hải cho rằng đây là một chuyến công tác thành công vượt ngoài mong đợi, quy mô lớn chưa từng có.
Chuyến đi của Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng đã tổ chức một diễn đàn xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, thu hút gần 200 nhà đầu tư tham dự, phần lớn đại diện cho các công ty quản lý tài sản hàng đầu thế giới với quy mô ước tính khoảng 16,000 tỷ USD. Ngoài hội nghị, các nhà đầu tư nước ngoài còn có gần 100 cuộc làm việc trực tiếp với doanh nghiệp Việt Nam, cho thấy mức độ quan tâm rất cao từ nhà đầu tư toàn cầu.
“Chưa bao giờ thị trường chứng khoán Việt Nam nhận được sự quan tâm lớn như vậy” - ông Hải cho biết.
Trong chuyến làm việc với Sở Giao dịch Chứng khoán London (LSE) và FTSE Russell, sự tham gia trực tiếp của Bộ trưởng Tài chính cho thấy quyết tâm chính trị rất lớn. Cả FTSE và LSE đều đánh giá cao, cho rằng chưa từng có quốc gia nào mà cấp cao nhất của Chính phủ, Bộ Tài chính và cơ quan quản lý thị trường trực tiếp tham gia quá trình cải cách để tạo thuận lợi tối đa cho nhà đầu tư nước ngoài. Trong hơn một năm qua, Chính phủ, Bộ Tài chính và UBCKNN đã thực hiện đúng hạn tất cả các cam kết, với lộ trình rõ ràng và quyết tâm chính trị cao. Điều này khiến FTSE và LSE tin tưởng vào công cuộc cải cách của thị trường tài chính Việt Nam.
Nâng hạng không phải mục tiêu cuối cùng
Trả lời cho câu hỏi điều gì xảy ra nếu thị trường Việt Nam không được nâng hạng trong tháng 10, lãnh đạo UBCKNN cho rằng, thực chất việc nâng hạng chỉ là một cột mốc trong lộ trình dài để xây dựng một thị trường chứng khoán hiệu quả, đóng góp nhiều hơn cho phát triển kinh tế. Tất cả cải cách vừa qua không chỉ nhằm nâng hạng, mà còn để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho dòng vốn quốc tế tiếp cận thị trường Việt Nam.
“Việc nâng hạng thị trường không phải là mục tiêu cuối cùng, mà mục tiêu cao nhất là nâng cao hiệu quả của thị trường chứng khoán trong việc phân bổ và huy động vốn” - ông Hải nhấn mạnh, đồng thời cho biết mục tiêu nâng hạng đã được nêu trong đề án phát triển thị trường chứng khoán do Thủ tướng Chính phủ ký năm 2019, và là một trong nhiều mục tiêu để xây dựng và phát triển thị trường bền vững.

Bộ Tài chính, UBCKNN và Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định và chính sách cụ thể để phát triển thị trường.
Về việc tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam rất minh bạch, rõ ràng và công khai các kế hoạch. Ví dụ, đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán, đề án nâng hạng, đề án phát triển nhà đầu tư tổ chức… đều có lộ trình đầy đủ.
Một trong những điểm nhà đầu tư nước ngoài quan tâm là triển khai cơ chế đối tác bù trừ trung tâm (CCP) nhằm tránh tình trạng giao dịch bị hủy, đảm bảo ổn định và kiểm soát rủi ro không chỉ cho thị trường chứng khoán mà cả hệ thống tài chính. Hiện đã có đầy đủ cơ sở pháp lý và hạ tầng (KRX), việc còn lại là triển khai công ty con của Tổng Công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam (VSDC), nhân sự và vốn để đưa CCP vào hoạt động.
Một điểm mới khác là đề án tái cấu trúc nhà đầu tư và phát triển ngành quỹ, mục tiêu là nâng tỷ lệ nhà đầu tư tổ chức. Khi tỷ trọng nhà đầu tư tổ chức cao hơn, thị trường sẽ bớt biến động, giảm rủi ro trong mắt nhà đầu tư nước ngoài, từ đó hạ chi phí vốn cho nền kinh tế. Đồng thời sẽ ban hành thêm nhiều chỉ số, khuyến khích phát triển các loại quỹ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư.
Không thiếu hàng hóa, nhưng cần đa dạng cấu trúc
Trước ý kiến cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam thiếu hàng hóa, lãnh đạo UBCKNN bày tỏ “vừa đồng tình nhưng cũng vừa không đồng tình”.
Thực tế, thị trường cổ phiếu có hơn 1,600 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, cộng thêm khoảng 500 mã trái phiếu Chính phủ và hơn 1,000 mã trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, cho thấy số lượng không ít.
Tuy nhiên, về cấu trúc sản phẩm vẫn chưa đa dạng. Sau 25 năm hình thành và phát triển, thị trường đã đạt được nhiều thành tựu về vốn hóa và thanh khoản, nhưng so với các nước trong khu vực, danh mục sản phẩm còn hạn chế. Do đó, Bộ Tài chính và UBCKNN đã và đang triển khai nhiều kế hoạch để đa dạng hóa sản phẩm.
Với sản phẩm truyền thống như cổ phiếu, Nghị định 245 vừa ban hành đã tích hợp hai quy trình IPO và niêm yết, tạo động lực để nhiều doanh nghiệp quan tâm đến IPO hơn. Gần đây, Chứng khoán Kỹ Thương (TCBS) triển khai IPO đã được đăng ký mua gấp 2.5 lần lượng chào bán, cho thấy tiềm năng lớn.
Với trái phiếu, cơ quan quản lý dự kiến sửa đổi, bổ sung khung pháp lý để sớm đưa ra các loại trái phiếu mới như trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp PPP, trái phiếu xanh và trái phiếu ESG.
Với sản phẩm quỹ, trong đề án phát triển quỹ vừa được Thứ trưởng Tài chính Nguyễn Đức Chi phê duyệt, Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam (VNX) phối hợp Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HOSE) ban hành quy chế chỉ số mới, cho phép linh hoạt phát triển nhiều chỉ số theo đề xuất của công ty quản lý quỹ.
Vừa qua, VNX cũng đã ký biên bản ghi nhớ (MoU) với FTSE để xây dựng thêm chỉ số tham chiếu. Bên cạnh đó, Thông tư 98 sắp ban hành sẽ mở đường cho nhiều loại quỹ mới như ETF, quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng, quỹ thị trường tiền tệ… Đây là những công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành quỹ.
Với thị trường phái sinh, hiện tại sản phẩm còn ít, trong khi nâng hạng thị trường và bảo vệ nhà đầu tư đòi hỏi phải phát triển thêm nhiều công cụ phòng ngừa rủi ro. Do đó, các sản phẩm phái sinh về tỷ giá, lãi suất chắc chắn phải được phát triển. Đây cũng là điều kiện cần thiết để hướng tới mục tiêu nâng hạng lên nhóm FTSE Mới nổi Bậc cao, MSCI Mới nổi.
Theo ông Hải, sự đa dạng hóa sản phẩm cũng kéo theo rủi ro phức tạp hơn cho nhà đầu tư. Vì vậy, rất cần chú trọng đến công tác đào tạo, tuyên truyền và phát triển đội ngũ tư vấn tài chính chuyên nghiệp, nhằm trang bị kiến thức và hỗ trợ nhà đầu tư tham gia hiệu quả hơn.
Huy Khải
FILI - 11:33:21 26/09/2025
Làn sóng đầu tư sân bay của khu vực tư nhân đang bùng nổ mạnh mẽ, tạo nên xu hướng mới trong phát triển hạ tầng hàng không.
Trong cuộc đua này, Sun Group nổi bật khi triển khai và đề xuất loạt dự án sân bay trên toàn quốc. Tại sân bay Gia Bình, tập đoàn đang giữ vai trò nhà thầu thi công và cam kết hoàn thành trong 12 tháng (tính từ tháng 12/2024). Ngoài ra, họ còn đầu tư mở rộng sân bay Phú Quốc và đề xuất các dự án sân bay Vân Phong, hạng mục dân dụng tại sân bay Phan Thiết.
Trước đó, Sun Group đầu tư xây dựng sân bay quốc tế Vân Đồn hoàn thành trong hai năm (2016-2018) theo mô hình đối tác công tư (PPP). Hiện Sun Group đang vận hành và khai thác sân bay này.
Nhiều tập đoàn lớn khác cũng tham gia cuộc đua. T&T Group đề xuất xây sân bay Quảng Trị, Masterise Group đề xuất sân bay quốc tế Gia Bình, Tập đoàn Xuân Trường đề xuất sân bay quốc tế Ninh Bình. Tập đoàn SOVICO-ADANI và Vietjet đã làm việc với Quảng Nam để đề xuất đầu tư Cảng hàng không quốc tế Chu Lai.
Trước đó, IPPG – công ty dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Johnathan Hạnh Nguyễn – cùng với ACV và 4 đối tác khác tham gia xây dựng nhà ga T2 tại sân bay quốc tế Cam Ranh. Còn nhà ga T2 tại sân bay quốc tế Đà Nẵng do CTCP Đầu tư Khai thác nhà ga quốc tế Đà Nẵng (AHT) làm chủ đầu tư.

Theo quy hoạch đến năm 2030, các sân bay được doanh nghiệp tư nhân đề xuất hầu hết đều có công suất dưới 30 triệu khách/năm - thuộc nhóm quy mô mà công ty PwC đánh giá có lợi thế hiệu quả kinh tế.
Báo cáo "Sân bay và tính phi kinh tế theo quy mô" của PwC phân tích gần 50 sân bay toàn cầu, cho thấy sự tồn tại của điểm bão hòa về quy mô. Các sân bay đạt hiệu suất tối ưu ở mức 40 triệu WLU/năm (1 WLU tương đương 1 hành khách hoặc 100 kg hàng hóa). Khi vượt ngưỡng này, chi phí vận hành và vốn tăng nhanh hơn doanh thu, các chỉ số lợi nhuận như ROA, ROCE và ROIC đều suy giảm.
Nguyên nhân là tình trạng quá tải hạ tầng khiến nhà ga, đường băng thường xuyên tắc nghẽn, giảm vòng quay khai thác. Ngoài ra, việc vận hành tổ hợp khổng lồ đòi hỏi bộ máy nhân sự đồ sộ, bảo trì cồng kềnh và tiêu thụ năng lượng cao. Theo PwC, chi phí này tăng theo cấp số nhân khi mở rộng quy mô.
Bên cạnh đó, các dự án mở rộng sân bay lớn thường kéo dài nhiều năm, tiêu tốn nguồn vốn khổng lồ và có rủi ro khi thị trường thay đổi.
Theo nghiên cứu của PwC, nhóm sân bay 15-40 triệu WLU/năm đạt hiệu quả vượt trội với ROA trung bình 5.2%, cao hơn đáng kể so với 3.7% ở nhóm trên 40 triệu WLU.
Cấu trúc vận hành gọn nhẹ, khả năng nâng cấp linh hoạt và chi phí biên thấp giúp nhóm này thích ứng tốt với biến động thị trường, tránh được tình trạng bị ràng buộc vào một mô hình khai thác không còn phù hợp trong bối cảnh ngành hàng không chịu tác động từ biến động kinh tế, dịch bệnh và biến đổi khí hậu.
Về trải nghiệm hành khách, các yếu tố như khoảng cách đến trung tâm, thời gian di chuyển trong nhà ga, quãng đường từ đường băng đến cửa ra đều tác động trực tiếp tới giá trị cảm nhận và hiệu quả khai thác.
Vũ Hạo
FILI - 11:10:25 26/09/2025


Từ đầu năm tới nay, Tổng Công ty Xây dựng Số 1 - CTCP (UPCoM: CC1) trải qua giai đoạn biến động nhân sự cấp cao liên tiếp xoay quanh vị trí Phó Tổng Giám đốc, đồng thời lên kế hoạch thoái bớt vốn tại công ty con HPRC sau nhiều năm thua lỗ.
CC1 vừa bổ nhiệm ông Hoàng Trung Thanh giữ chức Phó Tổng Giám đốc có hiệu lực từ ngày 18/09. Ông Thanh sinh năm 1971, trình độ chuyên môn là kỹ sư xây dựng, gắn bó với CC1 từ năm 1996. Ông từng giữ chức Phó Tổng Giám đốc từ 2010 đến tháng 3/2024, sau đó làm Giám đốc điều hành xây lắp trước khi quay lại vị trí cũ.
Động thái này diễn ra trong bối cảnh CC1 có loạt thay đổi nhân sự cho ghế Phó Tổng Giám đốc từ đầu năm. Hồi giữa tháng 5, CC1 miễn nhiệm ông Nguyễn Văn Ngọc, để tập trung vào vai trò Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Thành viên Ủy ban kiểm toán.
Trước đó tháng 2, Công ty cũng miễn nhiệm vị trí này với ông Nguyễn Văn Tuấn, để nhận nhiệm vụ mới làm Giám đốc điều hành xây lắp phụ trách mảng giao thông và hạ tầng kỹ thuật.
Hay vào đầu năm nay, ông Trần Minh Doanh thôi chức Phó Tổng Giám đốc để đảm nhận công việc mới.
Ở diễn biến khác, ngày 11/09, HĐQT CC1 đã thông qua chủ trương thoái 60% vốn góp tại Công ty TNHH Đầu tư Đường ven biển Hải Phòng (HPRC), giảm tỷ lệ từ 75% xuống còn 15%. Sau thương vụ, HPRC sẽ không còn là công ty con của CC1.
CC1 muốn thoái vốn tại HPRC trong bối cảnh doanh nghiệp này có kết quả kinh doanh kém sắc vài năm qua, lỗ hơn 2 tỷ đồng trong 3 năm từ 2022-2024.
Ngoài ra, CC1 cũng quyết định không tham gia góp thêm vốn tương ứng tỷ lệ sở hữu của CC1 tại Công ty TNHH Quản lý Tài sản và Dịch vụ CC1, trong đợt tăng vốn điều lệ từ 450 tỷ đồng lên 1,150 tỷ đồng.
CC1 đồng ý để các thành viên hiện hữu hoặc nhà đầu tư mới do Công ty Quản lý Tài sản và Dịch vụ CC1 tìm kiếm, góp thay phần vốn bổ sung mà CC1 từ chối tham gia, theo quy định hiện hành và điều lệ công ty. Thời điểm cuối tháng 6, CC1 có 8 công ty con (bao gồm HPRC) và 10 công ty liên kết, trong đó, CC1 sở hữu 48.89% tại Công ty Quản lý Tài sản và Dịch vụ CC1.
HPRC thành lập vào năm 2017 với vốn điều lệ ban đầu 900 tỷ đồng dưới hình thức CTCP; các cổ đông sáng lập gồm CC1 nắm 40%, CTCP Đầu tư và Xây dựng Bùi Vũ 25%, Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Việt Nam – TNHH MTV (IDICO nay đã cổ phần hóa, HNX: IDC) 25% và CTCP Đầu tư Phát triển Hạ tầng Giao thông 9 nắm 10%. Tháng 2/2022, Công ty đổi thành hình thức TNHH sau khi thu hẹp thành viên góp vốn chỉ còn CC1 nắm 89.109% và Công ty Bùi Vũ 10.891%. Thời điểm công bố vốn điều lệ gần nhất vào tháng 12/2022 cho thấy CC1 nắm 75%, Bùi Vũ nắm 25%. Ông Hà Văn Hân làm Tổng Giám đốc kiêm đại diện pháp luật.
HPRC là doanh nghiệp dự án, được thành lập nhằm thực hiện đầu tư xây dựng tuyến đường bộ đoạn qua địa bàn thành phố Hải Phòng và 9km trên địa bàn tỉnh Thái Bình theo hình thức đối tác công tư (PPP) (viết tắt: Tuyến đường bộ ven biển Hải Phòng - Thái Bình).
Dự án tuyến đường bộ ven biển Hải Phòng - Thái Bình theo hình thức hợp đồng BOT có tổng chiều dài 29.7km, tổng vốn đầu tư 3,759 tỷ đồng. Trong đó, vốn Nhà nước tham gia 720 tỷ đồng, vốn BOT 3,039 tỷ đồng, trong đó vốn vay là 2,139 tỷ đồng (chiếm 70% vốn BOT). Dự án khởi công vào giữa tháng 5/2017, dự kiến đi thông xe vào cuối 2019.
Tuy nhiên, dự án gặp vướng mắc lớn do chênh lệch lãi suất vốn vay giữa thực tế và theo quy định tại hợp đồng BOT, khoảng 5 - 6%/năm. Với mức chênh lệch này, vào tháng 5/2024, nhà đầu tư cho rằng dự án sẽ bị thiệt hại hơn 2,000 tỷ đồng. Việc này vượt quá khả năng cân đối tài chính và dẫn tới phá sản doanh nghiệp dự án.
Để tháo gỡ khó khăn này, UBND Thành phố Hải Phòng đã hai lần báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh lãi suất vốn vay và nguyên tắc xác định lãi suất vốn vay. Tính tới tháng 5/2024, việc giải phóng mặt bằng dự án tuyến đường bộ ven biển Hải Phòng - Thái Bình đã hoàn thành, chủ đầu tư đã thực hiện đầu tư 2,377/3,038 tỷ đồng, đạt 78.2% giá trị hợp đồng và sản lượng phần xây lắp đạt 1,868/2,549 tỷ đồng, đạt 73.3%. Ngoài ra, tổng giá trị huy động đạt 2,205/3,100 tỷ đồng.
Thanh Tú
FILI - 08:35:44 20/09/2025


Dịch vụ
Đợt chào bán 251 triệu cổ phiếu giúp Becamex IJC huy động hơn 2,500 tỷ đồng để đầu tư hạ tầng trọng điểm, củng cố nội lực tài chính và mở rộng dư địa tăng trưởng trong giai đoạn kinh tế dần ổn định.
Trọng tâm sử dụng vốn dài hạn và ổn định
Becamex IJC vừa công bố chốt ngày đăng ký cuối cùng vào 17/9/2025 để thực hiện quyền chi trả cổ tức bằng tiền và thực hiện quyền mua cổ phiếu phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu.
Theo phương án, Becamex IJC sẽ chi trả cổ tức bằng tiền với tỷ lệ 5%, tương đương cổ đông sở hữu một cổ phiếu được nhận 500 đồng. Với 377.7 triệu cổ phiếu đang lưu hành, ước tính công ty sẽ chi gần 189 tỷ đồng để trả cổ tức. Ngày thanh toán vào 07/10/2025.
Về thương vụ phát hành, Becamex IJC sẽ chào bán thêm 251.8 triệu cổ phiếu phổ thông cho cổ đông hiện hữu với giá 10,000 đồng/cổ phiếu, theo tỷ lệ 3:2. Nếu phát hành thành công, vốn điều lệ của công ty sẽ tăng từ 3,777 tỷ đồng lên gần 6,296 tỷ đồng. Tổng số vốn huy động dự kiến hơn 2,518 tỷ đồng, con số kỷ lục kể từ khi niêm yết.
Khác với nhiều doanh nghiệp bất động sản tăng vốn để bổ sung dòng tiền ngắn hạn, Becamex IJC xác định rõ trọng tâm sử dụng vốn theo hướng dài hạn và ổn định. Nguồn vốn thu được sẽ ưu tiên góp vào các dự án hạ tầng liên kết vùng như cao tốc TP.HCM – Thủ Dầu Một – Chơn Thành, đường Vành đai 4 TP.HCM (đoạn từ cầu Thủ Biên – Sông Sài Gòn). Đồng thời, công ty sẽ tăng tỷ trọng vốn tại Becamex Bình Phước để phát triển khu công nghiệp và nhà ở đi kèm, đồng thời xử lý một phần nợ vay ngân hàng.
Ngoài ra, vốn còn được phân bổ để thanh toán trái phiếu phát hành năm 2020, trả gốc lãi vay, cũng như đầu tư trực tiếp vào các dự án bất động sản trọng điểm Sunflower II (mở rộng) và Prince Town II (mở rộng).
Sự phân bổ này cho thấy chiến lược của Becamex IJC là kết hợp giữa hạ tầng và bất động sản, tận dụng thế mạnh kép: tham gia vào các dự án PPP quy mô hàng chục nghìn tỷ đồng, đồng thời tạo giá trị gia tăng từ khai thác quỹ đất dọc theo các tuyến giao thông trọng điểm. Đây cũng là cách công ty cân đối giữa dòng tiền dài hạn từ hạ tầng với khả năng tạo lợi nhuận đột biến từ bất động sản.
Rõ ràng rằng, việc tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu cũng đồng nghĩa với việc giảm áp lực vay nợ, củng cố tỷ lệ vốn chủ sở hữu. Kết hợp với chính sách chi trả cổ tức tiền mặt đều đặn, Becamex IJC tiếp tục cho thấy định hướng phát triển bền vững và cam kết bảo vệ lợi ích cổ đông.
Hạ tầng – Trụ cột mang dòng tiền ổn định cho Becamex IJC
Nhìn lại trong nhiều năm, mảng hạ tầng đã trở thành “bộ đệm” quan trọng giúp Becamex IJC duy trì sự ổn định lợi nhuận bất chấp biến động của thị trường bất động sản. Nổi bật nhất là dự án BOT Quốc lộ 13, tuyến đường huyết mạch kết nối TP.HCM – Bình Dương – Bình Phước.
Quyết sách đẩy mạnh đầu tư hạ tầng song hành với mảng bất động sản giúp Becamex IJC duy trì lợi nhuận trong giai đoạn bất động sản khó khăn. Năm 2023, khi nhiều doanh nghiệp bất động sản chịu thua lỗ thậm chí mất thanh khoản, Becamex IJC vẫn ghi nhận 394 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, biên lợi nhuận ròng đạt 26.42%.
Đây là minh chứng rõ rệt cho tính ổn định của mảng hạ tầng, yếu tố tạo sự khác biệt so với nhiều doanh nghiệp cùng ngành.
Nửa đầu năm 2025, doanh thu thu phí đạt 159 tỷ đồng, hoàn thành 51% kế hoạch cả năm và đóng góp lớn vào lợi nhuận hợp nhất. Mặc dù hoạt động kinh doanh bất động sản doanh thu ghi nhận chưa đáng kể nhưng nhờ nguồn thu từ BOT và dịch vụ khác, IJC vẫn ghi nhận 143 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, hoàn thành 33% kế hoạch cả năm.
Kết quả trên một lần nữa khẳng định hạ tầng tiếp tục đóng vai trò “xương sống” giữ cho lợi nhuận công ty ổn định, ngay cả khi bất động sản chưa vào điểm rơi lợi nhuận.
Về chiến lược đầu tư hạ tầng sắp tới, theo kế hoạch mở rộng, Quốc lộ 13 sẽ được nâng cấp lên 8 làn xe, dự kiến kéo dài thời gian thu phí đến hết năm 2047. Điều này không chỉ bảo đảm cho Becamex IJC dòng tiền dài hạn mà còn góp phần gia tăng giá trị các khu đất dọc tuyến, nơi công ty sở hữu hàng trăm nghìn mét vuông quỹ đất.
Bên cạnh đó, Becamex IJC còn tham gia các dự án hạ tầng quy mô lớn. Ví dụ, Dự án cao tốc TP.HCM – Thủ Dầu Một – Chơn Thành có tổng vốn 8,833 tỷ đồng, trong đó IJC góp 530 tỷ đồng (20% vốn chủ sở hữu) và đảm nhận vai trò tổng cầu thi công một đoạn khoảng 24 km.
Chưa hết, với dự án Vành đai 4 TP.HCM (đoạn từ cầu Thủ Biên – Sông Sài Gòn) có tổng mức đầu tư 11,743 tỷ đồng, Becamex IJC góp 1,268 tỷ đồng (36% vốn chủ sở hữu) và được chỉ định thầu thi công với chiều dài 19.15 km đoạn từ Khu VSIP đến Sông Sài Gòn.
Động lực từ kịch bản đô thị mở rộng, vĩ mô ổn định
Song song với yếu tố nội lực, Becaex IJC còn có thể hưởng lợi lớn từ các động thái quy hoạch vùng. Một kịch bản đang được giới đầu tư đặc biệt quan tâm là việc TP.HCM mở rộng địa giới, sáp nhập Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu để hình thành một không gian đô thị – công nghiệp mới. Nếu được triển khai, đây sẽ là “bước ngoặt” khi phạm vi đô thị TP.HCM được mở rộng cả về phía Bắc và phía Đông Nam.
Trong kịch bản này, lưu lượng giao thông qua các trục đường huyết mạch như Quốc lộ 13, cao tốc TP.HCM – Thủ Dầu Một – Chơn Thành, hay Vành đai 4 sẽ tăng mạnh. Điều này trực tiếp nâng cao hiệu quả khai thác các dự án hạ tầng mà Becamex IJC đang tham gia, đồng thời gia tăng giá trị quỹ đất hơn 1.2 triệu m² mà công ty đang nắm giữ.
Không chỉ dừng lại ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh (tỉnh Bình Dương cũ), Becamex IJC còn mở rộng sang tỉnh Đồng Nai (tỉnh Bình Phước cũ) với khoản góp vốn 684 tỷ đồng (31.77% vốn điều lệ) vào Công ty CP Phát triển Hạ tầng Kỹ thuật Becamex Bình Phước.
Khác với vai trò cổ đông tài chính, IJC trực tiếp tham gia phát triển các công trình thương mại dịch vụ và nhà ở. Đây là bước đi chiến lược, mở rộng không gian phát triển sang một “cực tăng trưởng mới” đang hút mạnh FDI và lao động di cư, qua đó tạo dư địa lợi nhuận bền vững trong trung và dài hạn.
Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô ổn định, lãi suất ở mức thấp và dòng vốn FDI tiếp tục chảy vào Việt Nam, việc Becamex IJC đẩy mạnh đầu tư hạ tầng và bất động sản đô thị cho thấy tầm nhìn dài hạn. Khi đô thị TP.HCM mở rộng, nhu cầu hạ tầng, dịch vụ và nhà ở sẽ gia tăng nhanh chóng, tạo cú hích lớn cho doanh nghiệp hội tụ lợi thế kép như Becamex IJC.
CTCP Phát triển Hạ tầng Kỹ thuật (Becamex IJC, HOSE: IJC) thông báo chào bán thêm hơn 251.8 triệu cổ phiếu với giá 10,000 đồng/cổ phiếu cổ phiếu, tỷ lệ thực hiện quyền là 3:2. Thời gian đăng ký và nộp tiền mua cổ phiếu từ 24/9 đến 23/10/2025. Cổ phiếu chào bán thêm cho cổ đông theo tỷ lệ thực hiện quyền sẽ không bị hạn chế chuyển nhượng. CTCP Chứng khoán SSI là đơn vị đồng hành thực hiện tư vấn thương vụ này.
Minh Tài
FILI - 12:00:00 17/09/2025



"Canh tác carbon" (Carbon farming) - cụm từ này đang dần trở nên quen thuộc trong giới đầu tư và chính sách tại Việt Nam khi đất nước đang bước vào hành trình xây dựng thị trường carbon nội địa.
Với cam kết Net Zero vào năm 2050 và sự thành công của việc bán 10.3 triệu tín chỉ carbon rừng cho World Bank với giá trị 51.5 triệu USD, Việt Nam đang đứng trước cánh cửa mới của nền kinh tế xanh[1]. Tuy nhiên, phía sau những con số ấn tượng này là một thị trường còn đầy những khoảng trống pháp lý và thách thức kỹ thuật cần được giải quyết một cách triệt để.
Mỏ vàng tiềm năng hay sân chơi chưa rõ luật?
Bản chất của "canh tác carbon" là việc thực hiện các hoạt động nông-lâm nghiệp nhằm hấp thụ CO₂ khỏi khí quyển và lượng hóa thành tín chỉ carbon có thể giao dịch. Theo định nghĩa trong khung pháp lý Việt Nam, tín chỉ carbon là chứng chỉ thương mại đại diện cho quyền phát thải một tấn CO₂ hoặc lượng khí nhà kính tương đương. Trong lĩnh vực nông-lâm nghiệp, điều này bao gồm các hoạt động như trồng rừng, nông nghiệp tái tạo, quản lý đất ngập nước và cải thiện quản lý rừng hiện có.
Thị trường carbon toàn cầu được chia thành hai phân khúc chính. Thị trường bắt buộc (compliance market) dành cho doanh nghiệp thuộc danh sách kiểm kê khí nhà kính bắt buộc, nơi họ phải mua tín chỉ để bù đắp lượng phát thải vượt hạn ngạch được phân bổ. Thị trường tự nguyện (voluntary carbon market) phục vụ các công ty muốn tự nguyện bù đắp dấu chân carbon để đạt mục tiêu ESG.
Hiện tại, tín chỉ từ nông-lâm nghiệp Việt Nam chủ yếu tham gia vào thị trường tự nguyện với mức giá khoảng 5 USD/tấn CO₂[2], thấp hơn đáng kể so với thị trường bắt buộc nhưng phù hợp với năng lực và khung pháp lý hiện hành của Việt Nam.
Vai trò của các tiêu chuẩn quốc tế như Verra (VCS) và Gold Standard trở nên then chốt để đảm bảo tính minh bạch và giá trị của tín chỉ. Theo quy trình Verra, mỗi đơn vị tín chỉ carbon được xác minh (VCU) đại diện cho 1 tấn CO₂ và được gán số sê-ri duy nhất để theo dõi trong suốt vòng đời. Quá trình này đòi hỏi sự xác thực từ các tổ chức kiểm định độc lập được công nhận (VVB), đảm bảo tính toàn vẹn và độ tin cậy của tín chỉ. Gold Standard cũng áp dụng quy trình tương tự nhưng với trọng tâm lớn hơn vào các tác động phát triển bền vững[3].
Tín chỉ carbon từ các giải pháp dựa vào thiên nhiên (Nature-Based Solutions) được các tập đoàn đa quốc gia ưa chuộng để thực hiện mục tiêu ESG. Theo báo cáo từ World Bank, các dự án REDD+ và trồng rừng không chỉ giúp giảm phát thải mà còn mang lại các đồng lợi ích về bảo tồn đa dạng sinh học và cải thiện sinh kế địa phương. Điều này giải thích tại sao các công ty như Microsoft, Shell và Apple tích cực tìm kiếm các tín chỉ từ dự án bảo vệ rừng và nông nghiệp bền vững, bất chấp mức giá cao hơn so với các dự án công nghiệp truyền thống[4].
Bức tranh thị trường và những người chơi tiên phong
Thương vụ bán 10.3 triệu tín chỉ ER cho World Bank thông qua Thỏa thuận ERPA đã trở thành case study "sống" quan trọng nhất của Việt Nam trong lĩnh vực carbon rừng. Dự án này bao gồm 6 địa phương thuộc vùng Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, nay là thành phố Huế trực thuộc trung ương), với mục tiêu giảm 10.3 triệu tấn CO₂ trong giai đoạn 2018-2024.
Kết quả thực tế đã vượt xa kỳ vọng, với 16.21 triệu tấn CO₂ được giảm chỉ trong giai đoạn 2018-2019, tạo ra 4.91 triệu tín chỉ carbon dư thừa mà Việt Nam có thể bán cho các bên thứ ba[5].
Quy trình thực hiện dự án theo phương pháp luận của FCPF đòi hỏi hệ thống đo đếm, báo cáo và thẩm định (MRV) nghiêm ngặt. Cơ chế chia sẻ lợi ích được thiết kế thông qua quá trình tham vấn cộng đồng minh bạch, đảm bảo 70,055 chủ rừng và 1,356 cộng đồng gần rừng được hưởng lợi trực tiếp[6]. Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam (VNFF) đóng vai trò trung gian trong việc phân phối 95% doanh thu cho các tỉnh để chi trả cho người dân, trong khi 5% còn lại được sử dụng cho các hoạt động quản lý[7].
Hệ sinh thái thị trường carbon Việt Nam hiện tại gồm nhiều nhóm tác nhân khác nhau. Về phía cung, có các hộ gia đình và cộng đồng giữ rừng, các công ty trồng rừng và doanh nghiệp nông nghiệp lớn. Các tổ chức phát triển dự án như South Pole, Emergent đóng vai trò trung gian quan trọng, giúp áp dụng phương pháp luận quốc tế và thực hiện thủ tục đăng ký tín chỉ.
Về phía cầu, ngoài World Bank, các tập đoàn quốc tế và định chế tài chính đang bắt đầu quan tâm đến tín chỉ carbon "made in Vietnam".
Vai trò quản lý Nhà nước được tập trung về Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cơ quan chịu trách nhiệm toàn diện từ việc chủ trì các dự án carbon rừng đến quản lý hệ thống đăng ký tín chỉ quốc gia. Mảng tài chính và chi trả lợi ích do Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam (VNFF) thực hiện[8].
Tiềm năng mở rộng ra các lĩnh vực khác của nông nghiệp Việt Nam là rất lớn. Với gần 13 triệu hecta đất nông nghiệp và hơn 118 triệu tấn phụ phẩm cây trồng hàng năm, Việt Nam có thể phát triển các dự án carbon từ trồng lúa giảm phát thải, canh tác cà phê-hồ tiêu theo hướng tái tạo và phục hồi rừng ngập mặn. Các phương pháp luận như VM0044 (chuyển hóa chất thải hữu cơ thành biochar) và VM0051 (quản lý ruộng lúa giảm methane) của Verra đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các kỹ thuật này[9].
Công nghệ hiện đại đang đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường tính chính xác và giảm chi phí cho hệ thống MRV. Viễn thám vệ tinh giúp theo dõi diện tích rừng và độ che phủ một cách liên tục, trong khi trí tuệ nhân tạo có thể phân tích dữ liệu lớn để dự báo xu hướng phát thải. Công nghệ blockchain được kỳ vọng sẽ tăng cường tính minh bạch trong giao dịch tín chỉ và ngăn chặn tình trạng tính toán trùng lặp.
Nút thắt pháp lý và rào cản thực thi
Rào cản lớn nhất cản trở sự phát triển của thị trường carbon Việt Nam là sự không rõ ràng về quyền sở hữu tín chỉ carbon. Câu hỏi then chốt vẫn chưa được giải đáp: tín chỉ thuộc về người dân trồng/giữ rừng, Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu rừng, hay doanh nghiệp đầu tư dự án?
Theo dự thảo Nghị định về dịch vụ lưu giữ và tăng trữ lượng carbon rừng đang được xây dựng, trong trường hợp rừng trồng do hộ gia đình tự đầu tư, tín chỉ carbon sẽ được coi là tài sản tư nhân với đầy đủ quyền giao dịch. Tuy nhiên, đối với đất rừng thuộc sở hữu Nhà nước, cơ chế chia sẻ lợi ích vẫn còn nhiều tranh luận.
Thách thức về năng lực kỹ thuật, Việt Nam hiện chưa có hệ thống MRV cấp quốc gia được quốc tế công nhận, mặc dù các dự án CDM đã có kinh nghiệm về MRV ở cấp dự án. Chi phí thẩm định theo tiêu chuẩn quốc tế có thể lên đến hàng ngàn USD cho mỗi dự án, tạo rào cản đặc biệt lớn đối với các dự án quy mô nhỏ của nông dân. Việc thiếu các tổ chức kiểm định (VVB) có trình độ trong nước buộc nhiều dự án phải thuê chuyên gia quốc tế, làm tăng chi phí và kéo dài thời gian thực hiện.
Hai nguyên tắc cốt lõi của thị trường carbon - "tính bổ sung" (additionality) và "tính lâu dài" (permanence) - đặt ra những thách thức đặc thù đối với Việt Nam. Tính bổ sung đòi hỏi chứng minh rằng dự án thực sự tạo ra lợi ích giảm phát thải mới, không phải là những gì sẽ xảy ra dù không có dự án. Với bối cảnh Việt Nam đã có nhiều chương trình bảo vệ rừng từ trước, việc chứng minh tính bổ sung trở nên phức tạp. Tính lâu dài yêu cầu đảm bảo lượng carbon được lưu trữ không bị mất do cháy rừng, thay đổi mục đích sử dụng đất hay các yếu tố bất khả kháng khác[10].
Mâu thuẫn về "tính trùng" (double counting) giữa việc bán tín chỉ ra thị trường quốc tế và việc sử dụng để hoàn thành mục tiêu NDC quốc gia đang trở thành vấn đề bức xúc. Theo nghiên cứu mới nhất, nếu Việt Nam giữ lại 50% tín chỉ cho mục tiêu NDC, có thể đáp ứng được 62% mục tiêu NDC vô điều kiện; trong khi giữ lại 30% chỉ đạt 37.3%[11]. Cơ chế điều chỉnh tương ứng (corresponding adjustments) được đề xuất trong dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 06/2022/NĐ-CP nhằm đảm bảo tính minh bạch và tránh tính toán trùng lặp[12].
Mô hình "canh tác carbon" của Australia đã trở thành một ngành công nghiệp quy mô lớn nhờ vào khung pháp lý rõ ràng. Quỹ Giảm phát thải (Emissions Reduction Fund - ERF) của Australia hoạt động dựa trên Đạo luật Tín chỉ Carbon 2011, quy định chi tiết về quyền sở hữu tín chỉ, phương pháp luận và cơ chế thị trường. Kể từ khi thành lập, ERF đã phát hành hơn 108 triệu đơn vị tín chỉ carbon Australia (ACCUs) và thu hút đầu tư từ cả khu vực công và tư nhân. Cơ chế đấu giá ngược của Australia cho phép chính phủ mua tín chỉ với giá thấp nhất, đảm bảo hiệu quả sử dụng ngân sách công. So với Việt Nam, khung pháp lý của Australia tạo ra sự minh bạch tuyệt đối về quyền sở hữu tín chỉ, trong khi Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn xây dựng các quy định tương tự[13].
Xây dựng thị trường carbon nông-lâm nghiệp minh bạch và công bằng
Ưu tiên hàng đầu của Việt Nam phải là sớm ban hành các văn bản pháp quy cấp Nghị định và Thông tư quy định rõ ràng về quyền sở hữu, quyền giao dịch tín chỉ carbon và cơ chế chia sẻ lợi ích.
Theo Quyết định 232/QD-TTg được ban hành tháng 1/2025, khung pháp lý cần hoàn thiện trước tháng 6/2025 để kịp thời cho giai đoạn vận hành thí điểm. Dự thảo Nghị định về dịch vụ carbon rừng đang được Bộ Nông nghiệp và Môi trường hoàn thiện cần được ưu tiên thông qua để tạo nền tảng pháp lý vững chắc.
Xây dựng hệ thống MRV quốc gia được quốc tế công nhận là nhiệm vụ cấp bách. Việt Nam cần phát triển các phương pháp luận MRV phù hợp với điều kiện trong nước, đồng thời đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế để giảm chi phí và tăng độ tin cậy cho các dự án.
Kinh nghiệm từ các dự án CDM và UN-REDD có thể được kế thừa và mở rộng thành hệ thống MRV toàn quốc. Việc đầu tư vào công nghệ viễn thám, AI và blockchain sẽ giúp giảm đáng kể chi phí giám sát và tăng tính minh bạch.
Mô hình hợp tác công-tư (PPP) học hỏi từ Australia có thể được áp dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nhà nước sẽ tạo hành lang pháp lý và có thể đóng vai trò người mua ban đầu thông qua các cơ chế đấu giá, trong khi doanh nghiệp đầu tư công nghệ và tài chính, người dân tham gia thực hiện và hưởng lợi trực tiếp. Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam có thể được mở rộng chức năng để trở thành cơ quan trung gian quản lý các giao dịch carbon tương tự như Clean Energy Regulator của Australia.
Việc lồng ghép yêu cầu "canh tác carbon" vào các chính sách hiện hành sẽ tạo ra hiệu ứng nhân rộng. Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao giảm phát thải có thể kết hợp với các phương pháp luận carbon như kỹ thuật làm khô-ướt luân phiên (AWD) để vừa tăng năng suất vừa tạo ra tín chỉ carbon. Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững cần được điều chỉnh để tích hợp các yêu cầu MRV và quản lý carbon từ giai đoạn thiết kế[14].
Cơ hội từ tài chính khí hậu mở ra triển vọng tạo vòng tuần hoàn tài chính-môi trường bền vững. Doanh thu từ bán tín chỉ carbon có thể được tái đầu tư vào bảo vệ rừng, hỗ trợ sinh kế bền vững và khuyến khích nông nghiệp tái tạo.
Theo đánh giá sơ bộ, nếu áp dụng kịch bản mở rộng với 56 biện pháp giảm thiểu, thị trường carbon có thể đóng góp trung bình 0.43% GDP hàng năm cho Việt Nam trong giai đoạn 2025-2030[15]. Con số này không chỉ thể hiện tiềm năng kinh tế mà còn khẳng định vai trò của thị trường carbon như một công cụ tài chính mạnh mẽ để thúc đẩy chuyển đổi xanh.
Để tối ưu hóa lợi ích, các chuyên gia khuyến nghị áp dụng cách tiếp cận thận trọng với mức giới hạn giao dịch ban đầu 50%, sau đó có thể tăng dần lên 70% khi năng lực trong nước được củng cố. Đồng thời, việc áp dụng phí giao dịch hợp lý khoảng 2% sẽ tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước để tái đầu tư vào các ngành khó giảm phát thải như nông nghiệp và lâm nghiệp[16].
[1] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2024/03/21/viet-nam-receives-51-5m-world-bank-payment-for-reducing-emissions-through-forest-preservation
[2] https://www.reccessary.com/en/news/vietnam-seeks-buyers-5-million-credits-forest-carbon-offset-exceeds-expectations
[3] https://vtn-partners.com/data/uploads/2023/11/231109-VTN_Carbon-Credit-Registration_Voluntary-Markets.pdf
[4] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2024/03/21/viet-nam-receives-51-5m-world-bank-payment-for-reducing-emissions-through-forest-preservation
[5] https://www.reccessary.com/en/news/vietnam-seeks-buyers-5-million-credits-forest-carbon-offset-exceeds-expectations
[6] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2024/03/21/viet-nam-receives-51-5m-world-bank-payment-for-reducing-emissions-through-forest-preservation
[7] https://www.vietdata.vn/post/vietnam-receives-41-million-from-world-bank-for-forest-carbon-credits
[8] https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/co-cau-to-chuc-moi-cua-bo-nong-nghiep-va-moi-truong-tu-1-3-2025-119250301070610666.htm
[9] https://www.thitruongcarbon.com/en/2025/04/25/vietnam-offers-great-opportunities-for-carbon-projects-in-agriculture/
[10] https://greenup.asia/understanding-mrv-technology-for-carbon-credits/
[11] https://van.nongnghiepmoitruong.vn/develop-regulations-on-the-international-transfer-of-emission-reduction-results-d768823.html
[12] https://vietnamnews.vn/economy/1723761/moving-forward-with-carbon-credit-trading-regulations.html
[13] https://sprintlaw.com.au/articles/australias-emissions-reduction-fund-erf-comprehensive-guide/
[14] https://www.thitruongcarbon.com/en/2025/04/25/vietnam-offers-great-opportunities-for-carbon-projects-in-agriculture/
[15] https://vietnamnews.vn/economy/1723761/moving-forward-with-carbon-credit-trading-regulations.html
[16] https://vietnamnews.vn/economy/1723761/moving-forward-with-carbon-credit-trading-regulations.html
Nguyễn Nhiều Lộc
FILI - 09:00:00 14/09/2025
交易股票、貨幣、商品、期貨、債券、基金等金融工具或加密貨幣屬高風險行為,這些風險包括損失您的部分或全部投資金額,所以交易並非適合所有投資者。
做出任何財務決定時,應該進行自己的盡職調查,運用自己的判斷力,並諮詢合格的顧問。本網站的內容並非直接針對您,我們也未考慮您的財務狀況或需求。本網站所含資訊不一定是即時提供的,也不一定是準確的。本站提供的價格可能由造市商而非交易所提供。您做出的任何交易或其他財務決定均應完全由您負責,並且您不得依賴通過網站提供的任何資訊。我們不對網站中的任何資訊提供任何保證,並且對因使用網站中的任何資訊而可能造成的任何交易損失不承擔任何責任。
未經本站書面許可,禁止使用、儲存、複製、展現、修改、傳播或分發本網站所含數據。提供本網站所含數據的供應商及交易所保留其所有知識產權。