Cotizaciones
Noticias
Análisis
Usuario
24/7
Calendario económico
Educación
Datos
- Nombres
- Último
- Anterior












Cuentas de Señal para Miembros
Todas las Cuentas de Señal
Todos los Concursos



Estados Unidos IPC de la Fed de Cleveland intermensual (SA) (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Estados Unidos Índice compuesto manufacturero de la Fed de Kansas (Diciembre)A:--
P: --
A: --
México Política de tasa de interésA:--
P: --
A: --
Argentina Balanza comercial (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Argentina Tasa de desempleo (Tercer trimestre)A:--
P: --
A: --
Corea del Sur IPP Intermensual (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Estados Unidos Tenencias semanales de bonos del Tesoro por bancos centrales extranjerosA:--
P: --
A: --
Japón IPC nacional intermensual (no SA) (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Japón IPC Intermensual (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Japón IPC subyacente nacional interanual (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Japón IPC (Excl. alimentos frescos y energía) (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Japón IPC nacional intermensual (Excl. alimentos ni energía) (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Japón IPC nacional interanual (excl. alimentos y energía) (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Japón IPC nacional interanual (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Japón IPC Nacional Intermensual (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Reino Unido Ïndice de confiaza del consumidor GfK (Diciembre)A:--
P: --
A: --
Japón Tipo de interés de referenciaA:--
P: --
A: --
Declaración de política monetaria
Australia Exportación de materias primas InteranualA:--
P: --
A: --
Conferencia de prensa del BOJ
Turquia Índice de confianza del consumidor (Diciembre)A:--
P: --
A: --
Reino Unido Venta minoristas Interanual (SA) (Noviembre)A:--
P: --
Reino Unido Ventas minoristas básicas interanuales (SA) (Noviembre)A:--
P: --
Alemania IPP interanual (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Alemania IPP Intermensual (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Alemania Ïndice de confianza del consumir GfK (SA) (Enero)A:--
P: --
Reino Unido Ventas menoristas Intermensuales (SA) (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Francia IPP Intermensual (Noviembre)A:--
P: --
A: --
Zona Euro Cuenta corriente (no SA) (Octubre)A:--
P: --
A: --
Zona Euro Cuenta Corriente (SA) (Octubre)A:--
P: --
A: --
Rusia Tipo clave--
P: --
A: --
Reino Unido Comvercio Distribuitivo CBI (Diciembre)--
P: --
A: --
Reino Unido Ïndice de expectativas de ventas al por menor CBI (Diciembre)--
P: --
A: --
Brasil Cuenta Corriente (Noviembre)--
P: --
A: --
Canada Ventas menoristas Intermensuales (SA) (Octubre)--
P: --
A: --
Canada Índice de precios de la vivienda nueva intermensual (Noviembre)--
P: --
A: --
Canada Ventas minoristas básicas intermensuales (SA) (Octubre)--
P: --
A: --
Estados Unidos Ventas de viviendas existentes anualizadas (Noviembre)--
P: --
A: --
Estados Unidos Índice de confianza del consumidor final UMich (Diciembre)--
P: --
A: --
Estados Unidos Índice de precios PCE de la Fed de Dallas Itermensual (Octubre)--
P: --
A: --
Estados Unidos Índice de tendencias de empleo de Conference Board (SA) (Noviembre)--
P: --
A: --
Zona Euro Índice de confianza del consumidor Prelim. (Diciembre)--
P: --
A: --
Estados Unidos Expectativas de inflación a 1 año UMich Final (Diciembre)--
P: --
A: --
Estados Unidos Índice UMich de expectativas del consumidor Final (Diciembre)--
P: --
A: --
Estados Unidos Índice de situación actual UMich Final (Diciembre)--
P: --
A: --
Estados Unidos Ventas totales anuales de viviendas existentes (Noviembre)--
P: --
A: --
Estados Unidos Perforación total Semanal--
P: --
A: --
Estados Unidos Total semanal de perforaciones petrolíferas--
P: --
A: --
Argentina Ventas minoristas Interanual (Octubre)--
P: --
A: --
China continental LPR a 5 ños--
P: --
A: --
China continental 1 año PRP--
P: --
A: --
Reino Unido Cuenta Corriente (Tercer trimestre)--
P: --
A: --
Reino Unido PIB Final Interanual (Tercer trimestre)--
P: --
A: --
Reino Unido PIB Final Intertrimestral (Tercer trimestre)--
P: --
A: --
Italia IPP interanual (Noviembre)--
P: --
A: --
México Índice de actividad económica Interanual (Octubre)--
P: --
A: --
Canada Índice Nacional de Confianza Económica--
P: --
A: --
Canada Índice de precios de los productos industriales interanual (Noviembre)--
P: --
A: --
Estados Unidos Índice de actividad nacional de la Fed de Chicago (Noviembre)--
P: --
A: --
Canada Índice de precios de los productos industriales intermensual (Noviembre)--
P: --
A: --


Sin datos que coincidan
Gráficos Gratis para siempre
Charlar P&R con expertos Filtros Calendario económico Datos HerramientaMembresía CaracterísticasTendencias del mercado
Indicadores populares
Últimas perspecivas
Últimas perspecivas
Temas en Tendencia
Columnistas Principales
Última actualización
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Programa de afiliados
Ver todo

Sin datos
“Ngôi sao” cổ tức ngân hàng
2,4 tỷ là số lượng cổ phiếu mà VietinBank sẽ phát hành để trả cổ tức.
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank, HoSE: CTG) đã trở thành ngân hàng có đợt trả cổ tức quy mô lớn nhất ngành trong năm nay.
VietinBank vừa chốt danh sách cổ đông vào ngày 18/12/2025 để phát hành cổ phiếu trả cổ tức từ nguồn lợi nhuận còn lại của giai đoạn 2009-2016 và các năm 2021, 2022.
Biến động giá cổ phiếu và định giá cổ phiếu CTG.
Tăng vốn, tăng năng lực cạnh tranh
VietinBank sẽ phát hành gần 2,4 tỷ cổ phiếu để trả cổ tức, tương ứng tỷ lệ phát hành là 44,64%. Sau phát hành, vốn điều lệ của VietinBank dự kiến tăng từ gần 53.700 tỷ đồng lên gần 77.670 tỷ đồng.
Trước đó, VietinBank đã chốt danh sách cổ đông vào ngày 15/10/2025 để chia cổ tức bằng tiền với tỷ lệ 4,5% (tức cổ đông sở hữu một cổ phiếu nhận về 450 đồng). Với gần 5,37 tỷ cổ phiếu đang lưu hành, VietinBank đã chi khoảng 2.400 tỷ đồng để trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông.
Đối với VietinBank, vốn điều lệ là cơ sở để xác định giới hạn đầu tư tài sản cố định, đầu tư góp vốn, cơ sở xác định giới hạn cấp tín dụng. Do đó, việc tăng vốn điều lệ là điều kiện tiên quyết để đáp ứng nhu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh thông qua việc tăng giới hạn cấp tín dụng, giới hạn đầu tư. Từ đó, tăng cường khả năng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô như định hướng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng cũng cho biết vốn điều lệ tăng thêm dự kiến sẽ được dùng toàn bộ để phục vụ kinh doanh, được phân bổ vào các lĩnh vực hoạt động của VietinBank với cơ cấu hợp lý trên nguyên tắc đảm bảo an toàn, hiệu quả và mang lại lợi ích cao nhất cho các cổ đông. Cụ thể, vốn tăng thêm được sử dụng cho một số lĩnh vực như đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ, phát triển dịch vụ; mở rộng hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư và các hoạt động kinh doanh khác của VietinBank.
Vị thế và lợi thế ngân hàng lớn
Về hoạt động kinh doanh, tại thời điểm cuối quý 3/2025, VietinBank giữ vị thế là ngân hàng lớn thứ hai tại Việt Nam với tổng tài sản đạt 2,76 triệu tỷ đồng. Thị phần huy động và cho vay của ngân hàng trong năm 2024 chiếm 11% toàn hệ thống. Ngoài ra, VietinBank cũng nắm giữ thị phần đáng kể trong các mảng dịch vụ với 21,2% thị phần thanh toán xuất nhập khẩu và 19% thị phần thanh toán thẻ.
VietinBank đang giữ vị thế là ngân hàng lớn thứ hai tại Việt Nam với tổng tài sản đạt 2,76 triệu tỷ đồng.
Trong 9 tháng đầu năm 2025, tăng trưởng tín dụng của ngân hàng đạt 15,6%, cao hơn mức trung bình 13,37% của toàn hệ thống và là mức cao nhất trong khối ngân hàng quốc doanh. Với đà tăng trưởng này, VietinBank được kỳ vọng có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng tín dụng từ 16% đến 18% trong năm 2025. Chất lượng tài sản của ngân hàng cũng tiếp tục được cải thiện khi tỷ lệ nợ xấu giảm mạnh xuống còn 1,09% từ mức 1,31% ở thời điểm cuối quý 2, đồng thời tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng lên mức 176,48%, cao thứ hai toàn ngành.
Về triển vọng kinh doanh, SHS nhận định VietinBank đang bước vào giai đoạn cao điểm ghi nhận kết quả kinh doanh tích cực nhờ chi phí tín dụng giảm sau thời gian dài đẩy mạnh trích lập dự phòng xử lý nợ xấu. Dự báo lợi nhuận trước thuế năm 2025 của ngân hàng được điều chỉnh tăng thêm 6% lên mức 40.595 tỷ đồng, tương ứng với mức tăng trưởng 28% so với cùng kỳ năm trước. Động lực tăng trưởng này đến từ chất lượng tài sản tốt hơn dự kiến và các rủi ro liên quan đến thuế quan chưa có tác động nhiều đến kết quả kinh doanh.
SHS định giá, hiệu quả sử dụng vốn ROE của VietinBank tại cuối quý 3/2025 đã vượt mức đỉnh của năm 2021. Tuy nhiên, hệ số P/B vẫn thấp hơn đáng kể so với mức đỉnh cũ, tạo cơ sở cho kỳ vọng cổ phiếu sẽ được định giá lại ở mức cao hơn.
Cập nhật tình hình kinh doanh đến cuối tháng 11/2025 cho thấy tăng trưởng tín dụng đạt 15,6%, đi ngang so với cuối quý 3 do dư nợ đã gần chạm hạn mức được cấp, khiến ngân hàng chuyển sang tập trung kiểm soát chất lượng tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm này tăng nhẹ lên mức 1,2%. Theo SHS, các rủi ro chính đối với VietinBank bao gồm xu hướng thu hẹp biên lãi ròng NIM trên toàn hệ thống, các rủi ro về thuế quan và căng thẳng thương mại có thể tác động rõ hơn vào năm 2026, cũng như áp lực về chất lượng tài sản sau giai đoạn tín dụng mở rộng nhanh.
Tương tự, HDS cũng lưu ý các rủi ro của VietinBank gồm lãi suất cho vay duy trì thấp gây áp lực lên NIM, đặc biệt khi lãi suất huy động có dấu hiệu tăng. Bên cạnh đó, chi phí dự phòng có thể tăng trở lại nếu rủi ro tín dụng tăng theo chu kỳ kinh tế.
Làn sóng tăng lãi suất huy động quay trở lại: Áp lực thật hay chỉ là ‘nhiễu’ cuối năm?
Sau nhiều tháng duy trì mặt bằng lãi suất thấp nhằm hỗ trợ tăng trưởng, thị trường tiền gửi đang chứng kiến một làn sóng tăng lãi suất huy động mới, khởi phát từ khối ngân hàng tư nhân và lan dần sang các ngân hàng thương mại nhà nước. Tuy nhiên, nhìn sâu vào cấu trúc và động lực phía sau, đây không phải là tín hiệu đảo chiều chính sách tiền tệ, mà nhiều khả năng chỉ là sự điều chỉnh mang tính kỹ thuật và mùa vụ, nằm trong tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).-
Đợt tăng lãi suất gần đây được dẫn dắt chủ yếu bởi các ngân hàng tư nhân, đặc biệt là nhóm ngân hàng quy mô nhỏ, định vị mạnh vào khách hàng bán lẻ. Tính theo bình quân gia quyền quy mô tiền gửi, lãi suất huy động tại khối này đã tăng khoảng 50–64 điểm cơ bản trong vòng ba tháng qua, tùy theo kỳ hạn.
Nếu xét theo lãi suất niêm yết, biên độ điều chỉnh còn rõ rệt hơn:
- Tăng khoảng 20–140 điểm cơ bản trên các kỳ hạn kể từ đầu năm.
Mức tăng này diễn ra sau giai đoạn giảm nhẹ trong tháng 3–5 theo định hướng hỗ trợ của Chính phủ.
Đáng chú ý, một số ngân hàng nhỏ như KLB, GPBank, PVComBank, BVB, SGB… đang chào mức lãi suất lên tới 7,5%–8,1%/năm cho kỳ hạn 6–12 tháng, chủ yếu thông qua các chương trình ưu đãi có chọn lọc. Điều này phản ánh áp lực cạnh tranh huy động vốn ngắn hạn, hơn là xu hướng tăng lãi suất diện rộng toàn hệ thống.
Khối ngân hàng nhà nước nhập cuộc: điều chỉnh mang tính “bắt nhịp”
Sau thời gian dài giữ ổn định kể từ giữa năm 2023, khối NHTM nhà nước (VCB, BID, CTG) cũng đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động, với mức tăng lên tới 50 điểm cơ bản trên hầu hết các kỳ hạn.
Động thái này không bất ngờ khi:
- Các ngân hàng tư nhân đã tăng lãi suất trước đó.
- NHNN đã nâng lãi suất OMO thêm 50 điểm cơ bản, kéo mặt bằng chi phí vốn ngắn hạn lên cao hơn.
Tuy nhiên, điểm quan trọng cần nhấn mạnh là mặt bằng lãi suất tuyệt đối vẫn rất thấp:
- Lãi suất tiền gửi 12 tháng của nhóm Big 4 hiện quanh 5,2%.
- Thấp hơn 30–40 điểm cơ bản so với đáy giai đoạn COVID 2020–2021.
- Thấp hơn tới ~160 điểm cơ bản so với mức trước COVID.
Điều này cho thấy việc điều chỉnh lãi suất hiện nay không mang tính thắt chặt, mà chỉ là sự “bình thường hóa nhẹ” để thích ứng với nhu cầu vốn cuối năm.
Đa dạng hóa nguồn vốn: ngân hàng không chỉ dựa vào tiền gửi
Một điểm tích cực trong chu kỳ lần này là các ngân hàng không phụ thuộc hoàn toàn vào kênh tiền gửi truyền thống, mà đang chủ động tái cấu trúc nguồn vốn thông qua:
Phát hành giấy tờ có giá
– Trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi nhằm kéo dài kỳ hạn nguồn vốn.
Huy động vốn quốc tế
– Điển hình như MBB vừa huy động thành công 500 triệu USD vay hợp vốn xanh, với mức đăng ký vượt nhu cầu – cho thấy niềm tin của nhà đầu tư quốc tế vẫn rất tích cực.
Tăng vốn chủ sở hữu
– Nhiều kế hoạch tăng vốn đang được tái khởi động, giúp cải thiện CAR và giảm áp lực huy động lãi suất cao.
Những động thái này giúp giảm áp lực phải “đẩy” lãi suất huy động lên quá mức, đồng thời cải thiện tính bền vững của cấu trúc nguồn vốn hệ thống.
Góc nhìn nhà đầu tư: áp lực có, nhưng vẫn trong tầm kiểm soát
Tổng hợp các yếu tố trên, có thể rút ra một số nhận định then chốt:
- Áp lực tăng lãi suất huy động là có thật, nhưng mang tính cục bộ và mùa vụ.
- NHNN nhiều khả năng vẫn duy trì lập trường nới lỏng, phù hợp với mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng GDP cao (hướng tới 10% năm 2026).
- Thanh khoản ngắn hạn đang được NHNN hỗ trợ tích cực và theo lịch sử, căng thẳng thanh khoản thường hạ nhiệt từ tháng 3, sau cao điểm Tết.
Trong trung hạn, nguồn vốn hệ thống còn được củng cố bởi:
- Kỳ vọng Fed tiếp tục cắt giảm lãi suất.
- Giải ngân đầu tư công được đẩy mạnh.
- Đa dạng hóa kênh huy động của các ngân hàng.
- Dòng tiền hộ kinh doanh quay lại hệ thống ngân hàng khi thích nghi dần với các quy định thuế và hóa đơn điện tử mới.
Làn sóng tăng lãi suất huy động hiện nay không phải là tín hiệu đảo chiều chính sách, mà là một bước điều chỉnh cần thiết để cân bằng cung – cầu vốn trong giai đoạn cao điểm cuối năm. Mặt bằng lãi suất tuyệt đối vẫn đang ở vùng hỗ trợ cho nền kinh tế, trong khi NHNN cho thấy rõ ưu tiên ổn định thanh khoản và tăng trưởng.
Với nhà đầu tư, thông điệp quan trọng là:
👉 Đây là “nhiễu kỹ thuật” nhiều hơn là rủi ro vĩ mô, và chưa đủ để làm thay đổi bức tranh trung hạn của thị trường tiền tệ cũng như thị trường tài sản.
Sóng ngắn "đón đầu" cổ phiếu nào?
Sau nhịp điều chỉnh mạnh giữa tháng 12, VN-Index lùi về vùng hỗ trợ quan trọng trong bối cảnh dòng tiền phân hóa nhưng chưa rơi vào trạng thái hoảng loạn. Agriseco Research cho rằng xu hướng trung hạn vẫn được giữ vững và khuyến nghị nhà đầu tư ngắn hạn ưu tiên chọn lọc cổ phiếu nền tảng tốt, đã điều chỉnh đủ sâu, giải ngân thận trọng tại các vùng hỗ trợ thay vì mua đuổi.
Trong bối cảnh dòng tiền phân hóa mạnh mẽ, Agriseco Research nhấn mạnh: cơ hội không nằm ở sự hưng phấn lan tỏa, mà tập trung vào những cổ phiếu đã điều chỉnh đủ sâu, vẫn bảo toàn xu hướng trung hạn — nhóm tài sản hiếm hoi vừa đáp ứng kỷ luật thị trường, vừa mở ra dư địa hành động cho nhà đầu tư ngắn hạn.
Agriseco Research khuyến nghị các mã cổ phiếu nhà đầu tư có thể xuống tiền trong ngắn hạn
Sau 4 tuần leo dốc liên tiếp, thị trường chứng khoán Việt Nam bất ngờ “phanh gấp” trong tuần giữa tháng 12/2025. VN-Index giảm mạnh 94 điểm, tương đương 5,4%, lùi về vùng 1.647 điểm và chính thức đánh mất hàng loạt ngưỡng hỗ trợ ngắn hạn. Thanh khoản toàn thị trường duy trì quanh mức 24.500 tỷ đồng/phiên, phản ánh áp lực chốt lời gia tăng nhưng chưa xuất hiện trạng thái bán tháo hoảng loạn trên diện rộng.
Theo phân tích của Agriseco Research, nhịp giảm này mang tính điều chỉnh kỹ thuật sau giai đoạn tăng nóng kéo dài, khi chỉ số liên tục áp sát vùng đỉnh ngắn hạn và dòng tiền bắt đầu phân hóa rõ nét hơn giữa các nhóm cổ phiếu.
Trong bối cảnh xu hướng trung hạn chưa bị phá vỡ, Agriseco cho rằng chiến lược hợp lý lúc này không phải là mua đuổi theo nhịp hồi, mà là kiên nhẫn chọn lọc những cổ phiếu có nền tảng cơ bản tốt, đã điều chỉnh về vùng hỗ trợ đáng tin cậy và phù hợp cho giao dịch ngắn hạn khi thị trường dần cân bằng trở lại.
Ở nhóm ngân hàng, CTG và STB được đánh giá là hai cái tên nổi bật cho chiến lược ngắn hạn nhờ vẫn duy trì cấu trúc xu hướng tích cực dù giá đã điều chỉnh. CTG hiện dao động quanh vùng hỗ trợ 49.000–50.000 đồng, tương ứng các đường trung bình động quan trọng, trong khi STB lùi về quanh mốc 46.000 đồng/cổ phiếu. Agriseco cho rằng đây là vùng có thể xem xét mở vị thế thăm dò, với kỳ vọng hồi phục ngắn hạn lên 54.000–55.000 đồng đối với CTG và khoảng 50.500 đồng với STB nếu thị trường ổn định trở lại.
Nhóm vật liệu xây dựng cũng bắt đầu lộ diện cơ hội khi nhiều cổ phiếu lớn quay về nền giá tích lũy kéo dài. HPG, sau hơn hai tháng đi ngang, đang giao dịch quanh vùng 26.000–26.500 đồng — nơi hội tụ của vùng hỗ trợ trung hạn trong bối cảnh thanh khoản suy giảm rõ rệt. Việc áp lực bán không gia tăng khi giá lùi về khu vực này mở ra khả năng xuất hiện một nhịp hồi kỹ thuật, với vùng mục tiêu gần 28.000–28.500 đồng trong ngắn hạn.
Top cổ phiếu đầu tư trong ngắn hạn
Bên cạnh đó, cổ phiếu KSB đang kiểm định lại vùng đáy ngắn hạn quanh mốc 18.000 đồng/cổ phiếu — khu vực hỗ trợ cứng trong quá khứ. Dù đã đánh mất MA50, giá vẫn vận động sát MA200 và cho thấy xu hướng tích lũy đi ngang. Điểm tích cực là tín hiệu “rút chân” xuất hiện trong phiên cuối tuần, củng cố khả năng hình thành nhịp hồi kỹ thuật, với vùng giá mục tiêu được Agriseco đề xuất quanh 20.000 đồng.
Ở nhóm bán lẻ, MWG được đưa vào danh sách theo dõi ngắn hạn khi cổ phiếu đã điều chỉnh khá sâu từ vùng đỉnh gần nhất về khu vực 77.000–78.000 đồng. Dù áp lực chốt lời vẫn hiện hữu, các chỉ báo kỹ thuật cho thấy lực bán đang suy yếu dần — yếu tố có thể tạo tiền đề cho một nhịp hồi khi tâm lý thị trường ổn định hơn.
Agriseco khuyến nghị nhà đầu tư ngắn hạn duy trì tỷ trọng cổ phiếu ở mức vừa phải, ưu tiên quản trị rủi ro và giải ngân từng phần tại các vùng hỗ trợ, thay vì mua đuổi trong những nhịp hồi nhanh.
Trong ngắn hạn, diễn biến của VN-Index quanh mốc 1.650 điểm sẽ đóng vai trò then chốt. Nếu chỉ số giữ vững vùng hỗ trợ này và thanh khoản cải thiện dần, các cổ phiếu có nền giá tốt nhiều khả năng sẽ xuất hiện nhịp hồi kỹ thuật. Ngược lại, nếu áp lực bán tiếp tục gia tăng, sự kiên nhẫn và chờ đợi tín hiệu xác nhận rõ ràng hơn vẫn là lựa chọn thận trọng cần được ưu tiên.
Dòng tiền "ngóng" sóng ngân hàng
Làn sóng tăng vốn bằng cổ tức cổ phiếu đang lan rộng trong ngành ngân hàng, với nhiều nhà băng đồng loạt chốt quyền trong tháng 12, tạo tâm điểm chú ý trên thị trường. Trong ngắn hạn, hiệu ứng cổ tức có thể kích hoạt nhịp sóng giá mang tính thời điểm, trong khi về trung – dài hạn, triển vọng tăng trưởng tín dụng và vai trò dẫn dắt của nhóm ngân hàng vẫn là trụ cột cho thị trường.
Tháng 12 mở ra cao điểm chốt quyền cổ tức, đặt nhóm cổ phiếu ngân hàng vào vùng quan sát đặc biệt, nơi kỳ vọng hiệu ứng cổ tức có thể kích hoạt nhịp cải thiện tâm lý trên diện rộng.
Từ đầu tháng 12 đến nay, làn sóng tăng vốn điều lệ trong ngành ngân hàng vẫn diễn ra sôi động.
Từ đầu tháng 12 đến nay, làn sóng tăng vốn điều lệ trong ngành ngân hàng tiếp tục lan rộng, với tâm điểm là các kế hoạch chi trả cổ tức bằng cổ phiếu và phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu. Xu hướng này không chỉ xuất hiện ở nhóm ngân hàng quốc doanh mà còn lan sang các nhà băng tư nhân quy mô vừa và nhỏ, tạo nên bức tranh sôi động hiếm thấy vào giai đoạn cuối năm.
Ngân hàng bước vào cao điểm tăng vốn
Trong tuần từ 16–19/12, ba ngân hàng gồm VietinBank (CTG), Saigonbank (SGB) và HDBank (HDB) sẽ lần lượt chốt danh sách cổ đông để thực hiện các đợt trả cổ tức bằng cổ phiếu.
VietinBank dự kiến chốt quyền vào ngày 18/12/2025 để phát hành cổ phiếu trả cổ tức từ nguồn lợi nhuận còn lại của các năm 2009–2016, 2021 và 2022. Theo kế hoạch, ngân hàng này sẽ phát hành gần 2,4 tỷ cổ phiếu, tương ứng tỷ lệ 44,64% – mức cao nhất trong ngành ngân hàng năm 2025. Sau phát hành, vốn điều lệ của VietinBank dự kiến tăng từ gần 53.700 tỷ đồng lên khoảng 77.670 tỷ đồng.
Đáng chú ý, đây chưa phải điểm dừng. VietinBank còn lên kế hoạch tiếp tục tăng vốn từ lợi nhuận còn lại năm 2023 và 2024. Nếu hoàn tất toàn bộ phương án đã được phê duyệt, vốn điều lệ của ngân hàng này có thể vượt mốc 105.000 tỷ đồng, củng cố vị thế dẫn đầu về quy mô vốn trong hệ thống.
Trong khi đó, HDBank thông báo chốt quyền vào ngày 19/12/2025 để chi trả tổng cộng gần 30% cổ tức và cổ phiếu thưởng. Theo đó, cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu sẽ nhận thêm 29,69 cổ phiếu mới, bao gồm cổ tức 25% từ lợi nhuận sau thuế năm 2024 và 4,69% cổ phiếu thưởng từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Sau đợt phát hành, vốn điều lệ HDBank dự kiến tăng lên hơn 50.000 tỷ đồng, chính thức gia nhập nhóm ngân hàng có quy mô vốn lớn.
Saigonbank cũng không đứng ngoài cuộc khi dự kiến phát hành hơn 22 triệu cổ phiếu để trả cổ tức, với tỷ lệ 6,5%. Sau phát hành, vốn điều lệ của ngân hàng này sẽ tăng từ 3.388 tỷ đồng lên khoảng 3.608 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, SHB vừa công bố kế hoạch tăng vốn thêm 7.500 tỷ đồng thông qua phát hành cho cổ đông hiện hữu, ESOP và chào bán riêng lẻ. Vietcombank và BIDV cũng đang xây dựng phương án trả cổ tức bằng cổ phiếu nhằm gia tăng năng lực vốn trong thời gian tới.
Kỳ vọng hình thành “sóng” cổ tức
Làn sóng tăng vốn diễn ra trong bối cảnh các ngân hàng đứng trước áp lực phải củng cố năng lực tài chính, đáp ứng chuẩn an toàn vốn và mở rộng dư địa tăng trưởng tín dụng. Cuộc đua này được dự báo sẽ còn quyết liệt hơn trong thời gian tới, khi tăng vốn không chỉ là mục tiêu chiến lược mà còn mang tính sống còn.
Theo giới phân tích, chi trả cổ tức bằng cổ phiếu và phát hành cổ phiếu thưởng đang trở thành “công cụ kép”: vừa đảm bảo quyền lợi cổ đông, vừa giúp ngân hàng cải thiện các chỉ tiêu an toàn và chuẩn bị nguồn lực cho chu kỳ tăng trưởng mới.
Trong ngắn hạn, chuỗi mốc chốt quyền dồn dập trong tháng 12 đang trở thành tâm điểm theo dõi của thị trường. Thực tế cho thấy, những đợt chia cổ tức lớn bằng cổ phiếu thường tạo ra các nhịp tăng giá ngắn hạn, khi dòng tiền có xu hướng đổ vào trước ngày chốt quyền.
Ở góc độ trung hạn, triển vọng ngành ngân hàng tiếp tục được đánh giá tích cực nhờ tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức cao và chính sách tiền tệ nới lỏng. Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2025 được dự báo đạt khoảng 14–15%, đóng vai trò là động lực chính thúc đẩy doanh thu và lợi nhuận của các ngân hàng.
Nhu cầu vốn từ sản xuất – kinh doanh, sự phục hồi của thị trường bất động sản cùng với đẩy mạnh giải ngân đầu tư công sẽ tiếp tục tạo lực cầu lớn cho vốn trung và dài hạn. Trong khi đó, biên lãi ròng (NIM) được kỳ vọng giữ vững nhờ kiểm soát chi phí huy động, đặc biệt ở các ngân hàng có tỷ lệ CASA cao và khả năng tối ưu hóa vận hành.
Với quy mô vốn hóa lớn, nhóm cổ phiếu ngân hàng vẫn giữ vai trò then chốt đối với diễn biến của VN-Index. Kỳ vọng nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đặt nhóm này vào vị thế có thể được định giá lại, qua đó thu hút dòng vốn ngoại tìm kiếm cổ phiếu dẫn dắt.
Theo Bloomberg, hệ số P/B ngành ngân hàng hiện đã quay về mức bình quân 10 năm, với P/B dự phóng năm 2025 ở quanh 1,6 lần và ROE dự phóng khoảng 17%. Dù mặt bằng định giá không còn rẻ như đầu năm, Chứng khoán Yuanta cho rằng nhịp điều chỉnh gần đây, kết hợp với triển vọng cải thiện của bất động sản, vẫn là yếu tố hỗ trợ khả năng tăng giá của cổ phiếu ngân hàng.
Trong bối cảnh đó, nhà đầu tư được khuyến nghị ưu tiên những ngân hàng có năng lực tái cơ cấu mạnh, chất lượng tài sản cải thiện rõ nét hoặc dư địa tăng trưởng tín dụng lớn, đặc biệt là các cổ phiếu vẫn còn khoảng trống về định giá.
Ngân hàng vào mùa tăng vốn cuối năm
Trong tuần 16–19/12/2025, VietinBank, HDBank và Saigonbank sẽ lần lượt chốt danh sách cổ đông để trả cổ tức bằng cổ phiếu, tiếp nối làn sóng tăng vốn điều lệ sôi động trong ngành ngân hàng từ đầu tháng 12.
VietinBank gây chú ý với kế hoạch phát hành gần 2,4 tỷ cổ phiếu, tỷ lệ 44,64%, qua đó nâng vốn điều lệ lên gần 77.670 tỷ đồng và còn dư địa tăng lên trên 105.000 tỷ đồng trong các giai đoạn tiếp theo.
HDBank chốt quyền chi trả gần 30% cổ tức và cổ phiếu thưởng, dự kiến nâng vốn điều lệ lên hơn 50.000 tỷ đồng, trong khi Saigonbank phát hành hơn 22 triệu cổ phiếu với tỷ lệ 6,5%, đưa vốn điều lệ lên 3.608 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng khác như SHB, Vietcombank và BIDV cũng đang triển khai hoặc xây dựng phương án tăng vốn, cho thấy cuộc đua củng cố năng lực tài chính của toàn ngành tiếp tục tăng tốc vào cuối năm.
HPG, VPB, VHM, MWG… nguy cơ bị bán hàng chục triệu cổ phiếu
KBSV vừa công bố báo cáo đánh giá về kế hoạch mua lại cổ phiếu của Vietnam Enterprise Investments Limited (VEIL) - quỹ ngoại lớn nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam do Dragon Capital quản lý.
KBSV cho rằng tổng quy mô rút vốn tối đa khoảng 545 triệu USD không phải là con số nhỏ nếu so với lượng bán ròng của 2 năm gần nhất. Tuy vậy, con số này vẫn tương đối khiêm tốn so với quy mô giao dịch chung, nhất là khi tỷ trọng giao dịch khối ngoại chỉ chiếm khoảng 9% từ đầu năm.
Theo ước tính, trong kịch bản thoái vốn tối đa 30%, loạt cổ phiếu vốn hóa lớn có thể bị bán mạnh như VPB (27 triệu đơn vị), HPG (20,7 triệu đơn vị), TCB (17,4 triệu đơn vị), KDH (16,9 triệu đơn vị), VHM (12,3 triệu đơn vị)...
Đây cũng không phải lần đầu VEIL thực hiện mua lại cổ phiếu. Trong hai năm 2024 - 2025, quỹ đã tiến hành hai đợt tương tự với tổng tỷ lệ 20,9% cổ phiếu lưu hành. KBSV đánh giá, quy mô từng đợt tương đương khoảng 1 - 3 phiên giao dịch của khối ngoại trong các giai đoạn bán ròng mạnh, do đó khó tạo ra biến động lớn lên xu hướng chung của thị trường.
Theo dấu dòng tiền cá mập 17/12: Khối ngoại tiếp tục bán ròng
Phiên 17/12, trong khi khối ngoại tiếp tục bán ròng phiên thứ hai liên tiếp thì khối tự doanh có động thái trái ngược với phiên mua ròng thứ hai liên tiếp.
Khối ngoại có phiên bán ròng thứ hai liên tiếp trong phiên 17/12 với gần 66 tỷ đồng. Cổ phiếu bán ròng nhiều nhất là VIC với gần 171 tỷ đồng. Ngược lại, HDB là cổ phiếu được mua ròng nhiều nhất với gần 125 tỷ đồng.
Trái ngược với xu hướng bán ròng của khối ngoại, tự doanh tiếp tục phiên thứ 2 mua ròng với gần 227 tỷ đồng. Lực mua ròng chủ yếu ở TCB, đạt gần 53 tỷ đồng. Chiều ngược lại, cổ phiếu bị bán ròng nhiều nhất là PET có giá trị gần 105 tỷ đồng.
Etiqueta blanca
API de datos
Complementos web
Creador de carteles
Programa de afiliados
El riesgo de pérdida en el comercio de activos financieros como acciones, divisas, materias primas, futuros, bonos, ETF o criptomonedas puede ser considerable. Puede sufrir una pérdida total de los fondos que deposita con su corredor. Por lo tanto, debe considerar cuidadosamente si dicha negociación es adecuada para usted tomando en cuenta sus circunstancias y recursos financieros.
No se debe considerar invertir sin llevar a cabo, su propia diligencia de manera minuciosa o consultar con sus asesores financieros. Nuestro contenido web puede no ser adecuado para usted, ya que no conocemos su situación financiera ni sus necesidades de inversión. Es posible que nuestra información financiera tenga latencia o contenga inexactitudes, por lo que usted debe ser completamente responsable de cualquiera de sus transacciones y decisiones de inversión. La empresa no se hará responsable de su capital perdido.
Sin obtener el permiso del sitio web, no se le permite copiar los gráficos, textos o marcas comerciales del sitio web. Los derechos de propiedad intelectual sobre los contenidos o datos incorporados a este sitio web pertenecen a sus proveedores y comerciantes de intercambio.
No conectado
Inicia sesión para acceder a más funciones

Membresía FastBull
Todavia no
Comprar
Iniciar sesión
Registrarse