Petikan
Berita
Analisis
Pengguna
24/7
Kalendar Ekonomi
Pendidikan
Data
- Nama
- Terkini
- Sblm












Akaun Signal untuk Ahli
Semua Akaun Signal
Semua Peraduan



Sidang Media RBA
Jerman Eksport MoM (SA) (Okt)S:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Indeks Keyakinan Perniagaan Kecil NFIB (Dilaraskan Musim) (Nov)S:--
R: --
S: --
Mexico Kadar Inflasi Tahunan (CPI) 12 Bulan (Nov)S:--
R: --
S: --
Mexico Kadar Tahunan CPI Teras (Nov)S:--
R: --
S: --
Mexico Kadar Tahunan PPI (Nov)S:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jualan Runcit Perniagaan Mingguan RedbookS:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Pembukaan Kerja JOLTS (Dilaraskan Mengikut Musim) (Okt)S:--
R: --
S: --
China, Tanah Besar Kadar Tahunan Bekalan Wang M1 (Nov)--
R: --
S: --
China, Tanah Besar Kadar Tahunan Bekalan Wang M0 (Nov)--
R: --
S: --
China, Tanah Besar Kadar Tahunan Bekalan Wang M2 (Nov)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Tinjauan Jangka Pendek EIA Untuk Ramalan Pengeluaran Minyak Mentah Tahun Semasa (Dis)S:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Ramalan Pengeluaran Gas Asli EIA Untuk Tahun Hadapan (Dis)S:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Ramalan Pengeluaran Minyak Mentah Jangka Pendek EIA Untuk Tahun Hadapan (Dis)S:--
R: --
S: --
Tinjauan Tenaga Jangka Pendek Bulanan EIA
Amerika Syarikat Purata Hasil Lelongan Bon Perbendaharaan 10 TahunS:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Stok Petrol API MingguanS:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Inventori Minyak Mentah API Cushing MingguanS:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Inventori Minyak Mentah API MingguanS:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Inventori Minyak Ditapis API MingguanS:--
R: --
S: --
Korea Selatan Kadar Pengangguran (Selepas Pelarasan Bermusim) (Nov)S:--
R: --
S: --
Jepun Indeks Pertimbangan Iklim Perniagaan Bukan Perkilangan Reuters (Dis)S:--
R: --
S: --
Jepun Indeks Syarikat Perindustrian Tankan Reuters (Dis)S:--
R: --
S: --
Jepun Kadar Bulanan PPI (Nov)S:--
R: --
S: --
Jepun Kadar Bulanan Indeks Harga Komoditi Korporat Domestik (Nov)S:--
R: --
S: --
Jepun Kadar Tahunan Indeks Harga Komoditi Korporat Domestik (Nov)S:--
R: --
S: --
China, Tanah Besar CPI YoY (Nov)S:--
R: --
S: --
China, Tanah Besar Kadar Tahunan PPI (Nov)S:--
R: --
S: --
China, Tanah Besar Kadar Bulanan CPI (Nov)S:--
R: --
S: --
Indonesia Jualan Runcit Tahunan (Okt)S:--
R: --
S: --
Itali Kadar Tahunan Keluaran Industri (Selepas Pelarasan Bermusim) (Okt)S:--
R: --
S: --
Itali Purata Hasil Lelongan Bon Perbendaharaan BOT 12 Bulan--
R: --
S: --
BOE Gov Bailey Bercakap
Presiden ECB Lagarde Bercakap
Afrika Selatan Jualan Runcit Tahunan (Okt)--
R: --
S: --
Brazil Kadar Tahunan Indeks Inflasi IPCA (Nov)--
R: --
S: --
Brazil CPI YoY (Nov)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Minggu Indeks Aktiviti Permohonan Gadai Janji MBA Pada Minggu--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Indeks Kos Buruh Suku Tahunan (Suku 3)--
R: --
S: --
Kanada Kadar Sasaran Semalaman--
R: --
S: --
Laporan Dasar Monetari BOC
Amerika Syarikat Perubahan Stok Petrol Mingguan EIA--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Permintaan Mingguan Untuk Pengeluaran Minyak Mentah Dijangka Daripada Volum Pengeluaran EIA--
R: --
S: --
Amerika Syarikat EIA Cushing Mingguan , Perubahan Stok Minyak Mentah Oklahoma--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Perubahan Saham Mentah Mingguan EIA--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Perubahan Dalam Import Minyak Mentah EIA Untuk Minggu Ini--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Perubahan Inventori Minyak Pemanas EIA Mingguan--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jangkaan Kadar Dana Fed - Jangka Panjang (Suku 4)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jangkaan Kadar Dana Fed - Tahun Pertama (Suku 4)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jangkaan Kadar Dana Fed - Tahun Kedua (Suku 4)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Had Dibuat FOMC (ON RRP)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Baki Bajet (Nov)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat FOMC (Kadar Langkah Berjaga-Jaga Tambahan)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Nisbah Lebihan Rizab Berkesan--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jangkaan Kadar Dana Fed - Semasa (Suku 4)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Sasaran Untuk Kadar Dana Persekutuan--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jangkaan Kadar Dana Fed - Tahun 3 (Suku 4)--
R: --
S: --
Penyata FOMC
Sidang Akhbar FOMC
Brazil Kadar Sasaran Selic--
R: --
S: --
U.K. Indeks Harga Rumah RICS Tiga Bulan (Nov)--
R: --
S: --


Tiada data yang sepadan
Aliran Pasaran
Indikator Teratas
Pandangan Terkini
Pandangan Terkini
Topik Trending
Kolumnis Top
Maklumat terkini
White Label
Data API
Web Plug-in
Program Afiliate
Lihat Semua

Tiada data


Cùng bật tăng sau giai đoạn chạm đáy, 2 doanh nghiệp hiếm hoi niêm yết trong ngành tinh bột sắn là CTCP Nông sản Thực phẩm Quảng Ngãi (Apfco, UPCoM: APF) và CTCP Lâm Nông sản Thực phẩm Yên Bái (Yfatuf, HNX: CAP) đều tăng trưởng lợi nhuận quý 3 vượt trội, dù doanh thu chưa phục hồi mạnh.
Bối cảnh so sánh cũng đáng chú ý khi cùng kỳ 2024 là giai đoạn thấp điểm của toàn ngành do chi phí nguyên liệu tăng, giá bán giảm và cạnh tranh gay gắt trong thu mua sắn.
Apfco tăng gần 1,500% lãi ròng quý 3
Theo BCTC quý 3/2025, Apfco (APF) lãi ròng hơn 31 tỷ đồng, tăng tới 1,481% so với cùng kỳ, dù doanh thu giảm nhẹ 2% xuống gần 1,379 tỷ đồng. Biên lãi gộp được cải thiện mạnh, đạt gần 15% so với mức 6.4% cùng kỳ, nhờ giá vốn hàng bán giảm đáng kể. Công ty cho biết thị trường tiêu thụ tinh bột sắn đã tích cực hơn, giá bán ổn định và tăng dần, sản lượng tiêu thụ cũng tăng 40% so với cùng kỳ.
Kết quả kinh doanh hàng quý giai đoạn 2023-2025 của Apfco
Lũy kế 9 tháng đầu năm 2025, doanh thu của Apfco đạt hơn 4,424 tỷ đồng, giảm 18% so với cùng kỳ, trong khi lãi ròng đạt gần 117 tỷ đồng, giảm 12%. Dù vậy, Doanh nghiệp vẫn vượt 18% kế hoạch lợi nhuận năm nhờ kế hoạch ban đầu đặt ra thận trọng.
Biên lợi nhuận cốt lõi được duy trì, song nguồn thu tài chính giảm mạnh là nguyên nhân chính khiến kết quả 9 tháng đầu năm đi lùi. Doanh thu tài chính chỉ đạt hơn 36 tỷ đồng, giảm 70%, do lãi chênh lệch tỷ giá giảm 72% xuống còn 33.5 tỷ đồng.
Cùng thời điểm, chi phí tài chính tăng 19% lên hơn 119 tỷ đồng, trong đó chi phí lãi vay chiếm tới 92%. Chi phí bán hàng tăng mạnh 39% lên hơn 413 tỷ đồng, gây áp lực lên lợi nhuận ròng.
Tính đến cuối tháng 9/2025, Apfco có gần 103 tỷ đồng tiền gửi ngân hàng, tăng 27% so với đầu năm, trong khi tổng dư nợ vay giảm hơn 500 tỷ đồng (27%) xuống còn 1,461 tỷ đồng, chủ yếu là nợ ngắn hạn. Ba chủ nợ lớn nhất gồm Vietinbank, Vietcombank và BIDV - đều tại Quảng Ngãi - chiếm hơn 1,100 tỷ đồng nợ vay ngắn hạn.
Yfatuf đạt lợi nhuận cao nhất 9 quý
Cũng trong nhóm tinh bột sắn, Yfatuf (CAP) kết thúc niên độ tài chính 2024-2025 với kết quả tích cực. Quý 4 niên độ (tương đương quý 3/2025), Công ty lãi ròng hơn 27.4 tỷ đồng, tăng 369% so với cùng kỳ, dù doanh thu giảm 23% còn hơn 181 tỷ đồng. Biên lãi gộp tăng mạnh lên 23.7%, cao hơn 12 điểm %, nhờ tiết giảm giá vốn và tiêu thụ hết lượng hàng tồn kho từ niên độ trước.
Kết quả kinh doanh hàng quý của Yfatuf trong 3 niên độ qua
Cả niên độ 2024-2025, CAP đạt doanh thu gần 657 tỷ đồng, tăng 11%, và lãi ròng 50.4 tỷ đồng, tăng 63% so với niên độ trước. Cả 2 chỉ tiêu đều vượt kế hoạch, lần lượt vượt 6% và 26%. Đây cũng là niên độ CAP quay lại mức doanh thu đỉnh của 3 năm trước, dù lợi nhuận vẫn thấp hơn giai đoạn đó.
Xuất khẩu tiếp tục là mảng chủ lực của CAP với gần 359 tỷ đồng, chiếm 55% tổng doanh thu, trong đó tinh bột sắn đóng góp 275.5 tỷ đồng (78% xuất khẩu), giảm nhẹ 9% so với cùng kỳ. Ngược lại, các sản phẩm giấy vàng mã tăng trưởng mạnh, đạt gần 51 tỷ đồng doanh thu xuất khẩu, tăng 19%; còn giấy đế xuất khẩu đạt gần 33 tỷ đồng, tăng 10%.
Cuối tháng 9/2025, CAP ghi nhận tiền gửi ngân hàng đạt 138.5 tỷ đồng, tăng 47% so với đầu niên độ (tháng 10/2024), giúp lãi tiền gửi tăng 48% lên 2.7 tỷ đồng. Cùng với đó, khoản lãi chênh lệch tỷ giá gấp 4.5 lần lên 7.2 tỷ đồng, kéo doanh thu tài chính cả niên độ gần gấp 3 lên 10.5 tỷ đồng. CAP hiện không có dư nợ vay.
Cổ phiếu cùng phản ứng tích cực
Sau khi công bố kết quả kinh doanh, cả 2 mã cổ phiếu CAP và APF đều tăng giá. Phiên 29/10, thị giá CAP đạt 43,000 đồng/cp, APF đạt 40,000 đồng/cp. Tuy nhiên, tính trong 1 năm qua, giá cổ phiếu CAP giảm nhẹ 1%, trong khi APF mất tới 17%, phản ánh sự phân hóa trong mức độ phục hồi của 2 doanh nghiệp cùng ngành.
Thế Mạnh
FILI - 16:19:57 29/10/2025



Cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 của Việt Nam đã tạo ra một cuộc đua tranh giành nguồn lực tài chính và công nghệ xanh chưa từng có. Tuy nhiên, xu hướng phân bổ đầu tư hiện tại đang bộc lộ một khoảng cách ngày càng lớn giữa khu vực đô thị và nông thôn - hiện tượng mà các chuyên gia quốc tế gọi là "chênh lệch carbon đô thị - nông thôn" (urban-rural carbon divide).
Mặc dù nông thôn chiếm phần lớn diện tích và dân số, nhưng phần lớn ngân sách đầu tư khí hậu tại nông thôn được phân bổ cho các dự án thích ứng, trong khi các hoạt động giảm thiểu phát thải tập trung chủ yếu tại các khu vực đô thị. Điều này đặt ra câu hỏi quan trọng: liệu Việt Nam có thể đạt được mục tiêu Net Zero mà không giải quyết được "khoảng lặng nông thôn" trong chiến lược khí hậu quốc gia?
Bức tranh giảm phát thải lệch pha: Khi đô thị là tâm điểm
Đóng góp do Quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam đã nâng mức cam kết giảm phát thải từ 9% lên 15.8% so với kịch bản thông thường (BAU) vào năm 2030 mà không cần hỗ trợ quốc tế, và lên đến 43.5% với hỗ trợ quốc tế[1]. Tuy nhiên, việc triển khai thực tế lại cho thấy sự mất cân bằng rõ rệt trong phân bổ nguồn lực giữa các khu vực.
Theo phân tích từ 29 tỉnh thành trong giai đoạn 2016-2020, tổng ngân sách đầu tư khí hậu trung bình đạt khoảng 18,000 tỷ đồng mỗi năm, tăng từ 15,000 tỷ đồng năm 2016 lên gần 24,000 tỷ đồng năm 2020. Đáng chú ý, hơn 90% ngân sách này dành cho các hoạt động thích ứng, trong khi các dự án giảm thiểu phát thải - đặc biệt là năng lượng tái tạo - chủ yếu do khu vực tư nhân thực hiện và tập trung tại khu vực đô thị[2].
Xu hướng này không chỉ riêng ở Việt Nam, báo cáo của OECD về tài chính khí hậu tại Đông Nam Á cho thấy Indonesia, Việt Nam và Philippines là ba nước nhận nhiều tài chính khí hậu nhất trong khu vực, với lần lượt 7.5 tỷ USD, 6.6 tỷ USD và 3.6 tỷ USD tương ứng. Tuy nhiên, 82% nguồn tài chính này được phân bổ cho các dự án giảm thiểu, chủ yếu trong lĩnh vực năng lượng (40%) và giao thông (24%), trong khi nông nghiệp chỉ chiếm 10%[3].
Sự mất cân bằng này lớn hơn khi xét đến vai trò của nông nghiệp. Theo các ước tính gần đây, ngành nông nghiệp đóng góp khoảng 17.6% tổng phát thải khí nhà kính của Việt Nam vào năm 2023, tiếp tục là ngành phát thải lớn thứ hai nền kinh tế. Trong đó, trồng lúa chiếm gần một nửa (48%), theo sau là chăn nuôi (15%)[4].
Thực tế, một số dự án tiên phong đã chứng minh hiệu quả của việc đầu tư vào giảm phát thải nông thôn. Chương trình Biogas của Việt Nam lĩnh vực chăn nuôi đã được quốc tế công nhận về đóng góp giảm phát thải khí nhà kính, với việc bán được 3,072,265 tín chỉ carbon, thu về 8.1 triệu USD và mang lại lợi ích cho 1 triệu người dân tại 53 tỉnh thành[5].
Dự án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long cũng cho thấy kết quả với việc giảm chi phí 20-30%, tăng năng suất 10%, tăng thu nhập nông dân 20-25% và giảm phát thải trung bình 5-6 tấn CO2 tương đương mỗi hecta[6].
Giải mã nguyên nhân của "khoảng lặng nông thôn"
“Khoảng lặng nông thôn” xuất phát từ ba nhóm nguyên nhân chính: chính sách, tài chính và công nghệ.
Về mặt chính sách, các cơ chế ưu đãi hiện tại có xu hướng "thiên vị" các dự án quy mô lớn tại khu vực đô thị. Theo báo cáo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), các ngân hàng gặp khó khăn khi phân loại, sàng lọc và báo cáo tín dụng xanh do thiếu tiêu chí định lượng cụ thể. Đặc biệt, hướng dẫn về quản lý rủi ro xã hội - một yêu cầu quan trọng để đánh giá tín dụng xanh - chưa được ban hành, khiến các tổ chức tín dụng thiếu căn cứ pháp lý để xây dựng hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Rào cản tài chính còn rõ nét hơn, báo cáo của CARE và SNV cho thấy 45% hộ gia đình nông thôn cho biết nhu cầu tín dụng chưa được đáp ứng năm 2023, với nhu cầu đáng kể về các khoản vay dưới 100 triệu đồng và trên 500 triệu đồng[7]. Các khoản vay từ Ngân hàng Chính sách Xã hội (VBSP) có tính cứng nhắc và chỉ nhắm đến các hộ nghèo, khiến nhu cầu nông nghiệp rộng lớn hơn không được đáp ứng. Chi phí hành chính cao và sự phụ thuộc vào việc đến ngân hàng trực tiếp khiến việc tiếp cận các khoản vay trở nên khó khăn đối với cộng đồng nông thôn.
Đáng chú ý, dù tín dụng xanh đã đạt gần 640,000 tỷ đồng vào đầu năm 2024, cấu trúc dòng vốn vẫn lệch pha. Gần 45% chảy vào các dự án năng lượng, trong khi nông nghiệp, dù chiếm hơn 30%, vẫn chưa đủ sức hấp thụ vốn vào các mô hình nhỏ lẻ[8]. World Bank cảnh báo, nếu không hành động, biến đổi khí hậu có thể thổi bay 12-14.5% GDP mỗi năm vào 2050, cho thấy sự cấp bách của việc huy động vốn cho nông thôn[9].
Về công nghệ, lỗ hổng trong hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm định (MRV) cho các hoạt động giảm phát thải trong nông nghiệp và lâm nghiệp là rào cản lớn[2].
So sánh với các mô hình quốc tế thành công, chính sách Nông nghiệp Chung (CAP) cải cách của EU đã gắn trợ cấp tài chính trực tiếp với hiệu suất sinh thái thông qua sáu chương trình sinh thái (eco-schemes) mới, tạo ra động lực kinh tế trực tiếp cho nông dân. Đan Mạch là quốc gia đầu tiên áp dụng hệ thống định giá carbon có mục tiêu cho phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp, với thuế khí metan từ chăn nuôi ở mức 120 krone Đan Mạch (16 euro) mỗi tấn CO2 tương đương vào năm 2030, tăng lên 300 krone (40 euro) vào năm 2035[10].
Tại Ấn Độ, chương trình PM-KUSUM đã hỗ trợ nông dân lắp đặt 2 triệu máy bơm nước chạy bằng năng lượng mặt trời độc lập và năng lượng hóa 1.5 triệu máy bơm nông nghiệp kết nối lưới điện. Chương trình cung cấp hỗ trợ tài chính trung ương 30% chi phí chuẩn hoặc chi phí đấu thầu (tùy theo mức nào thấp hơn), Chính phủ bang cung cấp ít nhất 30% trợ cấp, và nông dân chỉ cần đóng góp tối đa 40% còn lại[11].
Hệ quả và những cơ hội bị bỏ lỡ
"Khoảng lặng nông thôn" là vấn đề về công bằng xã hội tạo ra những hệ quả kinh tế và chiến lược.
Theo báo cáo của World Bank năm 2025, trong trường hợp không có các hành động thích ứng, tác động khí hậu có thể làm giảm sản lượng kinh tế của Việt Nam tới 12.5% vào năm 2050 so với dự báo cơ sở. Một cuộc khảo sát năm 2024 của World Bank cho thấy khoảng ba phần tư các nhà sản xuất trong ngành may mặc và điện tử - hai ngành xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam - hoạt động tại các khu vực đối mặt với căng thẳng nhiệt (heat stress) đáng kể, đặt hơn 1.3 triệu công nhân trước rủi ro[12].
Về cơ hội bị bỏ lỡ, tiềm năng kinh tế từ thị trường tín chỉ carbon nông thôn rất lớn. Theo tính toán, chỉ riêng ngành nông nghiệp Việt Nam có thể đạt 57 triệu tín chỉ carbon mỗi năm (tương đương với việc hấp thụ 57 triệu tấn CO2), có thể được bán cho các tổ chức quốc tế với giá khoảng 5 USD/tín chỉ, mang lại gần 300 triệu USD hàng năm[13].
Năm 2023, Việt Nam lần đầu tiên bán 10.3 triệu tín chỉ carbon rừng thông qua World Bank với giá 5 USD/tấn, thu về 51.5 triệu USD. Ông Võ Xuân Vinh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH), hy vọng Việt Nam sẽ tham gia thị trường tín chỉ carbon toàn cầu và xuất khẩu thêm 5 triệu tín chỉ carbon nữa trong giai đoạn 2024-2025, nâng tổng số tín chỉ carbon đã bán lên 25 triệu[14].
Việt Nam đã nhận được 33.3 triệu USD (có thể tăng lên 40 triệu USD) từ Quỹ Tài sản Carbon Chuyển đổi (TCAF) để hỗ trợ thực hiện dự án phát triển 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long[15].
Trong lĩnh vực lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT đã ký Thư ý định với tổ chức Emergent Forest Finance Accelerator về việc chuyển giao kết quả giảm phát thải khí nhà kính từ 4.26 triệu hecta rừng tại các vùng Trung Trung Bộ và Tây Nguyên cho LEAF Coalition trong giai đoạn 2022-2026. Với hơn 14 triệu hecta rừng, lĩnh vực lâm nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu[16].
Lấp đầy "khoảng lặng": Chiến lược cân bằng cho một Việt Nam Net Zero toàn diện
Để khắc phục "khoảng lặng nông thôn", Việt Nam cần một chiến lược đa chiều bao gồm cải cách chính sách, đổi mới tài chính và phát triển công nghệ.
Về chính sách vĩ mô, cần lồng ghép tiêu chí "chuyển dịch công bằng cho nông thôn" vào Chiến lược Tăng trưởng Xanh quốc gia và các quy hoạch ngành. Theo Quyết định 21/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí môi trường và xác nhận dự án đầu tư trong danh mục phân loại xanh, cần có hướng dẫn chi tiết để triển khai. Đồng thời, áp dụng chính sách miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ hoạt động cho vay xanh.
Về giải pháp tài chính, cần thiết lập cơ chế bù lãi suất hoặc trợ cấp lãi suất để giảm chi phí vay cho các dự án nông nghiệp xanh, hữu cơ hoặc tuần hoàn, và thành lập Quỹ Bảo lãnh Tín dụng Xanh để giúp chia sẻ rủi ro và hỗ trợ ngân hàng cho vay đảm bảo trên quy mô lớn hơn. Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) đã cam kết đầu tư kỷ lục tại Việt Nam trong năm tài chính 2024, với tổng cam kết vốn hơn 1.6 tỷ USD, trong đó hơn 750 triệu USD là tài chính dài hạn. IFC đã hỗ trợ SeABank phát hành trái phiếu xanh đầu tiên của ngân hàng tư nhân tại Việt Nam và tạo điều kiện cho Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) đầu tư 75 triệu USD vào trái phiếu khí hậu của SeABank[17].
Về phát triển công nghệ, ưu tiên đầu tư hạ tầng lưới điện thông minh để tích hợp các nguồn năng lượng phân tán và triển khai nền tảng số cho việc đăng ký và giao dịch tín chỉ carbon từ nông nghiệp. Việt Nam dự kiến vận hành thị trường carbon trong nước chính thức từ năm 2028, với khoảng 150 doanh nghiệp phát thải lớn trong các ngành sản xuất sắt thép, xi măng và nhiệt điện sẽ nhận hạn ngạch phát thải miễn phí trong giai đoạn thí điểm[18].
Vai trò của hợp tác công-tư (PPP) là then chốt trong việc kêu gọi doanh nghiệp lớn "dẫn dắt" chuỗi cung ứng xanh. Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, cần cải thiện năng lực quản trị và chuyên môn của đội ngũ cán bộ, đặc biệt về tiêu chí môi trường, xã hội và khí hậu. Gần đây, ngân hàng trung ương đã công bố cẩm nang về hệ thống quản lý môi trường và xã hội để hỗ trợ các tổ chức tín dụng xác định và kiểm soát rủi ro ESG trong cung cấp tín dụng[19].
Để thành công, Việt Nam cần học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế. Mô hình "4Ps" (hợp tác giữa khu vực công, tư nhân và sản xuất) đã được áp dụng thành công tại Tây Nguyên trong dự án cà phê bền vững, giúp đào tạo hơn 3,355 nông dân về kỹ thuật sản xuất cà phê tốt hơn và nông lâm kết hợp. Dự án đã giới thiệu cây ăn quả tạo bóng mát (macadamia và hồng) cải thiện chất lượng và khả năng chống chịu của cà phê, với 75% nông dân trong khu vực mục tiêu tham gia tự nguyện[20].
[1] https://www.climatechange.vn/project/updated-nationally-determined-contribution-ndc-in-2022-realizing-vietnams-commitment-to-achieving-net-zero-ghg-emissions-by-2050/
[2] https://www.undp.org/sites/g/files/zskgke326/files/migration/vn/CPEIR-Main-Report-all-final-EN-Final.pdf
[3] https://uclg-aspac.org/wp-content/uploads/2024/09/2024_GCoM_SEA_Climate_Finance_Outlook.pdf
[4] https://b-company.jp/reducing-greenhouse-gas-emissions-in-agriculture-in-vietnam-emerging-technologies/
[5] https://en.vietnamplus.vn/emission-reduction-brings-carbon-credit-opportunity-for-agricultural-sector-post312937.vnp
[6] https://wtocenter.vn/chuyen-de/27039-vietnam-steps-up-efforts-to-reduce-agricultural-carbon-footprint
[7] https://eurochamvn.org/wp-content/uploads/2024/08/September-2024-Adaptation-Finance-for-Agriculture.pdf
[8] https://www.pwc.com/vn/en/insights-hub/perspective-blog/green-finance-development.html
[9] https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/brief/key-highlights-country-climate-and-development-report-for-vietnam
[10] https://ieep.eu/publications/denmarks-incoming-eu-presidency-a-window-of-opportunity-for-discussing-climate-policy-in-agriculture/
[11] https://ieefa.org/sites/default/files/2022-05/Solar-Powered-Irrigation-Would-Accelerate-Indias-Energy-Transition_June-2021.pdf
[12] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2025/05/22/maintaining-momentum-for-institutional-reforms-and-promoting-greener-development-can-help-viet-nam-achieve-high-income-s
[13] https://isats.vn/en/news/news/carbon-credit-trading-great-potential-in-agriculture-15.html
[14] https://vietnamnet.vn/en/vietnam-to-sell-5-million-more-carbon-credits-in-2024-2025-period-2314291.html
[15] https://en.mae.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin-Eng.aspx?ItemID=8404
[16] https://en.vietnamplus.vn/emission-reduction-brings-carbon-credit-opportunity-for-agricultural-sector-post312937.vnp
[17] https://www.ifc.org/en/pressroom/2024/ifc-s-record-climate-financing-in-viet-nam-supports-green-transition-private-sector-resilience
[18] https://en.mae.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin-Eng.aspx?ItemID=8688
[19] https://baochinhphu.vn/dot-pha-trong-phat-trien-tin-dung-xanh-va-tai-chinh-ben-vung-102250521164442426.htm
[20] https://eurochamvn.org/wp-content/uploads/2024/08/September-2024-Adaptation-Finance-for-Agriculture.pdf
Nguyễn Nhiều Lộc
FILI - 09:00:00 27/09/2025


Do niên độ tài chính khác nhau, kết quả kinh doanh quý 2/2025 của Apfco (APF) trùng với quý 3 niên độ 2024 - 2025 của Yfatuf (CAP). Trong khi lãi ròng Apfco giảm 24%, Yfatuf tăng đột biến 439%, phản ánh bức tranh phân hóa rõ nét trong nhóm doanh nghiệp bột sắn niêm yết.
Yfatuf tăng trưởng đột biến nhờ tiêu thụ thuận lợi, biên lãi gộp cải thiện
Quý 3 niên độ 2024 - 2025 (tương đương quý 2 thực tế), CTCP Lâm Nông sản Thực phẩm Yên Bái (Yfatuf, HNX: CAP) bất ngờ báo lãi ròng gần 17 tỷ đồng, tăng tới 439% so với cùng kỳ, mức cao nhất trong 8 quý gần đây.
Doanh thu thuần tăng 142% lên 166 tỷ đồng, kéo theo biên lãi gộp cải thiện 1.1 điểm % lên 20.9%. Công ty cho biết giá tinh bột sắn tăng và tiêu thụ thuận lợi là động lực chính, trong khi giá vốn trên đơn vị sản phẩm giảm.
Kết quả kinh doanh hàng quý của Yfatuf từ niên độ 2022 - 2023
Trong 9 tháng đầu niên độ tài chính 2024 - 2025 (01/10/2024 - 30/06/2025), Yfatuf ghi nhận doanh thu hơn 475 tỷ đồng, tăng 33% so với cùng kỳ. Riêng mảng xuất khẩu tinh bột sắn mang về 222 tỷ đồng, tăng 56%, chiếm phần lớn tổng doanh thu. Các mảng khác như giấy vàng mã, giấy đế cũng tăng trưởng nhưng không đáng kể về quy mô.
Tuy nhiên, áp lực chi phí đang bào mòn lợi nhuận. Biên lãi gộp lũy kế giảm từ 18.2% xuống còn 13.5%, do giá vốn tăng nhanh hơn doanh thu. Lãi ròng 9 tháng đầu niên độ chỉ đạt 22.4 tỷ đồng, giảm 11% so với cùng kỳ, thực hiện được 56% mục tiêu lợi nhuận tối thiểu 40 tỷ đồng cho cả niên độ.
Apfco giảm lợi nhuận dù biên lãi gộp cải thiện, chi phí bán hàng gần gấp đôi
Là doanh nghiệp có quy mô lớn nhất ngành về sản lượng - CTCP Nông sản Thực phẩm Quảng Ngãi (Apfco, UPCoM: APF) chỉ đạt 24.4 tỷ đồng lãi ròng quý 2, giảm 24% so với cùng kỳ.
Dù doanh thu tăng 10% lên gần 1,457 tỷ đồng, biên lãi gộp tăng từ 8.2% lên 13.2%, nhưng chi phí bán hàng tăng tới 98% lên hơn 126 tỷ đồng do hàng luân chuyển chậm, dẫn tới chi phí lưu kho tăng cao. Mảng tài chính cũng kém tích cực khi doanh thu giảm 60%, trong khi chi phí tăng 22%, là những yếu tố kéo ghì lợi nhuận.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu thuần của Apfco giảm 23% còn hơn 3,047 tỷ đồng, lãi ròng giảm sâu 35% xuống 84.5 tỷ đồng, mức thấp nhất bán niên trong 3 năm trở lại đây. Công ty lý giải nguyên nhân chính đến từ thị trường xuất khẩu lớn nhất là Trung Quốc vẫn tăng trưởng chậm, tồn kho khu vực Đông Nam Á cao, nhu cầu giảm kéo giá tinh bột sắn đi xuống.
Kết quả kinh doanh bán niên hàng năm của Apfco
Doanh nghiệp đặt kế hoạch thận trọng cho năm 2025 với mục tiêu doanh thu 6,000 tỷ đồng (giảm 10%) và lãi ròng 100 tỷ đồng (giảm 35%). Sau 2 quý, Apfco thực hiện được 85% kế hoạch lợi nhuận và 51% doanh thu năm.
Tồn kho và rủi ro ngành đang hiện rõ
Cuối tháng 6/2025, Apfco ghi nhận tồn kho hơn 1,505 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm. Trong đó, thành phẩm chiếm 87%, tương đương 1,314 tỷ đồng. Ngược lại, tồn kho của Yfatuf chỉ hơn 91 tỷ đồng, giảm 21% so với đầu niên độ (tháng 10/2024).
Thực tế toàn ngành sắn cũng đang chịu áp lực rõ rệt. Giá xuất khẩu tinh bột sắn 6 tháng đầu năm 2025 chỉ đạt bình quân 304.1 USD/tấn, giảm tới 28 - 31% so với cùng kỳ 2024. Dù sản lượng xuất khẩu sang Trung Quốc, thị trường chiếm 94% đầu ra, tăng mạnh lên gần 1.5 triệu tấn, giá giảm sâu khiến hiệu quả kinh doanh bị ảnh hưởng.
Ngành cũng đối mặt nguy cơ suy giảm vùng nguyên liệu khi giá sắn xuống thấp, hiệu quả canh tác kém, dự kiến diện tích trồng có thể giảm 20 - 30% trong vụ 2025 - 2026, theo dự báo của ban lãnh đạo Apfco tại ĐHĐCĐ.
Biến động thị giá phần nào phản ánh bức tranh trái chiều của 2 doanh nghiệp. Cổ phiếu CAP giảm gần 18% trong 1 năm qua, và hồi phục 11% trong 3 tháng gần đây. Trong khi đó, giá cổ phiếu APF giảm 12% qua 1 năm, mới hồi nhẹ 5% trong quý gần nhất. Kết phiên 30/07, CAP đóng cửa tại 38,600 đồng/cp, APF ở mức 45,400 đồng/cp.
Thế Mạnh
FILI - 15:58:00 30/07/2025
6 DN sắp trả cổ tức bằng tiền, cao nhất 100%
Thêm 6 doanh nghiệp trên sàn chứng khoán sẽ thực hiện chốt quyền trả cổ tức bằng tiền cho cổ đông
1. CTCP Dịch vụ Trực tuyến FPT (Mã FOC):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 26/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 100% (10.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 27/6/2025
2. CTCP Gỗ An Cường (Mã ACG):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 26/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức đợt 2 năm 2024: 7% (700 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 10/6/2025
3. CTCP Damsan (Mã ADS):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 26/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 5% (500 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 19/6/2025
4. CTCP 397 (Mã BCB):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 30/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 28,1% (2.810 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 20/6/2025
5. CTCP Thủy điện Srok Phu Miêng IDICO (Mã ISH):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 2/6/2025
- Tỷ lệ cổ tức đợt 1 năm 2024: 10% (1.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 30/6/2025
6. CTCP Nông sản Thực phẩm Quảng Ngãi (Mã APF):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 3/7/2025
- Tỷ lệ cổ tức đợt 2 năm 2024: 15% (1.500 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 18/7/2025
6 DN sắp trả cổ tức bằng tiền, cao nhất 100%
Thêm 6 doanh nghiệp trên sàn chứng khoán sẽ thực hiện chốt quyền trả cổ tức bằng tiền cho cổ đông
1. CTCP Dịch vụ Trực tuyến FPT (Mã FOC):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 26/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 100% (10.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 27/6/2025
2. CTCP Gỗ An Cường (Mã ACG):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 26/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức đợt 2 năm 2024: 7% (700 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 10/6/2025
3. CTCP Damsan (Mã ADS):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 26/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 5% (500 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 19/6/2025
4. CTCP 397 (Mã BCB):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 30/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 28,1% (2.810 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 20/6/2025
5. CTCP Thủy điện Srok Phu Miêng IDICO (Mã ISH):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 2/6/2025
- Tỷ lệ cổ tức đợt 1 năm 2024: 10% (1.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 30/6/2025
6. CTCP Nông sản Thực phẩm Quảng Ngãi (Mã APF):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 3/7/2025
- Tỷ lệ cổ tức đợt 2 năm 2024: 15% (1.500 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 18/7/2025





CAP và APFCO - 2 doanh nghiệp hiếm hoi ngành tinh bột sắn trên sàn - đồng loạt báo lãi ròng giảm mạnh trong quý đầu năm, bất chấp tăng trưởng doanh thu. Cổ phiếu của cả 2 cũng rơi hơn 20-30% sau giai đoạn tăng dài từ năm 2022.
CAP ghi nhận lãi ròng quý 1 thấp nhất hơn 12 năm
CTCP Lâm Nông sản Thực phẩm Yên Bái sử dụng niên độ tài chính từ 01/10 đến 30/09 năm sau. Trong quý 2 niên độ 2024-2025 (tương đương quý 1/2025 thực tế), doanh thu đạt 164.5 tỷ đồng, tăng 61% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, giá vốn tăng mạnh 87%, khiến biên lãi gộp co mạnh từ 20.9% xuống còn 8.3%.
Hệ quả, lãi ròng quý này chỉ đạt hơn 62 triệu đồng, chưa tới 1% cùng kỳ niên độ trước, tức giảm tới 99%. Đây là mức thấp nhất kể từ quý 4/2012, tức sau hơn 12 năm.
Kết quả kinh doanh các quý gần đây của CAP tính từ năm 2020
Lũy kế 6 tháng đầu niên độ, CAP ghi nhận doanh thu hơn 309 tỷ đồng, tăng 7%. Trong đó, doanh thu xuất khẩu tinh bột sắn đạt hơn 146 tỷ đồng, tăng nhẹ 7%, chiếm 47% tổng doanh thu. Đáng chú ý, doanh thu xuất khẩu giấy vàng mã đạt 24.7 tỷ đồng, tăng 21%, tương đương trung bình mỗi ngày xuất khẩu khoảng 136 triệu đồng.
Tuy nhiên, do chi phí giá vốn và quản lý tăng cao, lãi ròng 6 tháng chưa tới 5.5 tỷ đồng, giảm 75% so với cùng kỳ.
Theo kế hoạch, CAP đặt mục tiêu doanh thu 618 tỷ đồng và lãi ròng tối thiểu 40 tỷ đồng cho cả niên độ. Sau 6 tháng, Công ty mới thực hiện được 50% kế hoạch doanh thu và gần 14% mục tiêu lợi nhuận.
Lãi ròng quý 1 của APF bốc hơi 39%
CTCP Nông sản Thực phẩm Quảng Ngãi (APFCO, UPCoM: APF) sử dụng niên độ tài chính thông thường (01/01-31/12), đã công bố BCTC quý 1/2025 với lãi ròng đạt 60 tỷ đồng, giảm 39% so với cùng kỳ. Nguyên nhân do doanh thu thuần giảm tới 40% còn 1,560 tỷ đồng, dù biên lãi gộp cải thiện lên 15.6% (so với mức 9.2%). Doanh thu tài chính giảm 82% còn 13 tỷ đồng, do không còn khoản lãi chênh lệch tỷ giá như cùng kỳ. Trong khi đó, chi phí tài chính tăng 16%, chi phí quản lý cũng tăng nhẹ.
Sản lượng tinh bột sắn trong kỳ đạt 158,000 tấn, giảm 29,000 tấn so với cùng kỳ. APF cho biết thị trường tiêu thụ chậm, giá bán tiếp tục giảm, hàng hóa luân chuyển chậm dẫn đến chi phí tài chính tăng. Tuy vậy, các công ty con tại Lào vẫn có hiệu quả do giá nguyên liệu đầu vào thấp hơn.
Với kế hoạch năm 2025 đạt 6,000 tỷ đồng doanh thu và 100 tỷ đồng lãi ròng, sau quý đầu năm, APF thực hiện 26% chỉ tiêu doanh thu và 60% kế hoạch lợi nhuận.
Kết quả kinh doanh theo quý của APF giai đoạn 2020-2025
Xuất khẩu sắn tăng lượng nhưng giảm giá
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) và Tổng cục Hải quan, quý 1/2025, Việt Nam xuất khẩu 1.21 triệu tấn sắn và sản phẩm từ sắn, trị giá 372.88 triệu USD, tăng 28% về lượng nhưng giảm 13% về trị giá so với cùng kỳ. Nguyên nhân chính đến từ giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh.
Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất, trong khi Malaysia ghi nhận mức tăng trưởng nhập khẩu đáng chú ý.
Tại ĐHĐCĐ thường niên cuối tháng 4/2025, lãnh đạo APF thừa nhận thị trường tinh bột sắn đang gặp nhiều khó khăn. Ngoài thị trường chính là Trung Quốc, Doanh nghiệp đang nỗ lực mở rộng thị trường sang nội địa, Nhật Bản, Đài Loan, châu Âu và Indonesia để giảm sự phụ thuộc.
Giá cổ phiếu rơi mạnh kể từ đầu năm
Cả cổ phiếu APF và CAP đều trải qua đợt điều chỉnh mạnh theo xu hướng thị trường kể từ đầu tháng 4, sau thông tin liên quan đến thuế quan mới từ Mỹ. Giá cổ phiếu CAP giảm 27% về mức đáy 2 năm quanh 33,000 đồng/cp, trước khi hồi phục lên khoảng 35,000 đồng/cp. APF giảm 13% xuống sát vùng 44,000 đồng/cp, rồi hồi lên mức 49,500 đồng/cp.
Sau quãng dài tích lũy giá trị từ năm 2020, thị giá APF hiện đã mất 20% so với đỉnh 62,000 đồng/cp thiết lập vào đầu tháng 7/2024. Trong khi đó, CAP mất 33% kể từ đỉnh 64,000 đồng/cp giữa tháng 3/2024.
Thế Mạnh
FILI - 16:28:00 05/05/2025
White Label
Data API
Web Plug-in
Pembuat Poster
Program Afiliate
Risiko kerugian dalam perdagangan instrumen kewangan seperti saham, FX, komoditi, niaga hadapan, bon, ETF dan kripto boleh menjadi besar. Anda mungkin mengalami kerugian keseluruhan dana yang anda depositkan dengan broker anda. Oleh itu, anda harus mempertimbangkan dengan teliti sama ada perdagangan sedemikian sesuai untuk anda berdasarkan keadaan dan sumber kewangan anda.
Tiada keputusan untuk melabur harus dibuat tanpa menjalankan usaha wajar secara menyeluruh sendiri atau berunding dengan penasihat kewangan anda. Kandungan web kami mungkin tidak sesuai dengan anda kerana kami tidak mengetahui keadaan kewangan dan keperluan pelaburan anda. Maklumat kewangan kami mungkin mempunyai kependaman atau mengandungi ketidaktepatan, jadi anda harus bertanggungjawab sepenuhnya untuk sebarang keputusan perdagangan dan pelaburan anda. Syarikat tidak akan bertanggungjawab ke atas kehilangan modal anda.
Tanpa mendapat kebenaran daripada tapak web, anda tidak dibenarkan menyalin grafik, teks atau tanda dagangan tapak web. Hak harta intelek dalam kandungan atau data yang dimasukkan ke dalam laman web ini adalah milik pembekal dan pedagang pertukarannya.
Tidak log masuk
Log masuk untuk mengakses lebih banyak ciri

Keahlian FastBull
Belum lagi
Belian
Log masuk
Daftar