Petikan
Berita
Analisis
Pengguna
24/7
Kalendar Ekonomi
Pendidikan
Data
- Nama
- Terkini
- Sblm












Akaun Signal untuk Ahli
Semua Akaun Signal
Semua Peraduan



Penyata Kadar RBA
Sidang Media RBA
Jerman Eksport MoM (SA) (Okt)S:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Indeks Keyakinan Perniagaan Kecil NFIB (Dilaraskan Musim) (Nov)S:--
R: --
S: --
Mexico Kadar Inflasi Tahunan (CPI) 12 Bulan (Nov)S:--
R: --
S: --
Mexico Kadar Tahunan CPI Teras (Nov)S:--
R: --
S: --
Mexico Kadar Tahunan PPI (Nov)S:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jualan Runcit Perniagaan Mingguan RedbookS:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Pembukaan Kerja JOLTS (Dilaraskan Mengikut Musim) (Okt)S:--
R: --
S: --
China, Tanah Besar Kadar Tahunan Bekalan Wang M1 (Nov)--
R: --
S: --
China, Tanah Besar Kadar Tahunan Bekalan Wang M0 (Nov)--
R: --
S: --
China, Tanah Besar Kadar Tahunan Bekalan Wang M2 (Nov)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Tinjauan Jangka Pendek EIA Untuk Ramalan Pengeluaran Minyak Mentah Tahun Semasa (Dis)S:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Ramalan Pengeluaran Gas Asli EIA Untuk Tahun Hadapan (Dis)S:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Ramalan Pengeluaran Minyak Mentah Jangka Pendek EIA Untuk Tahun Hadapan (Dis)S:--
R: --
S: --
Tinjauan Tenaga Jangka Pendek Bulanan EIA
Amerika Syarikat Purata Hasil Lelongan Bon Perbendaharaan 10 TahunS:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Stok Petrol API MingguanS:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Inventori Minyak Mentah API Cushing MingguanS:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Inventori Minyak Mentah API MingguanS:--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Inventori Minyak Ditapis API MingguanS:--
R: --
S: --
Korea Selatan Kadar Pengangguran (Selepas Pelarasan Bermusim) (Nov)S:--
R: --
S: --
Jepun Indeks Pertimbangan Iklim Perniagaan Bukan Perkilangan Reuters (Dis)S:--
R: --
S: --
Jepun Indeks Syarikat Perindustrian Tankan Reuters (Dis)S:--
R: --
S: --
Jepun Kadar Bulanan PPI (Nov)S:--
R: --
S: --
Jepun Kadar Bulanan Indeks Harga Komoditi Korporat Domestik (Nov)S:--
R: --
S: --
Jepun Kadar Tahunan Indeks Harga Komoditi Korporat Domestik (Nov)S:--
R: --
S: --
China, Tanah Besar CPI YoY (Nov)S:--
R: --
S: --
China, Tanah Besar Kadar Tahunan PPI (Nov)S:--
R: --
S: --
China, Tanah Besar Kadar Bulanan CPI (Nov)S:--
R: --
S: --
Indonesia Jualan Runcit Tahunan (Okt)S:--
R: --
S: --
Itali Kadar Tahunan Keluaran Industri (Selepas Pelarasan Bermusim) (Okt)--
R: --
S: --
Itali Purata Hasil Lelongan Bon Perbendaharaan BOT 12 Bulan--
R: --
S: --
BOE Gov Bailey Bercakap
Presiden ECB Lagarde Bercakap
Afrika Selatan Jualan Runcit Tahunan (Okt)--
R: --
S: --
Brazil Kadar Tahunan Indeks Inflasi IPCA (Nov)--
R: --
S: --
Brazil CPI YoY (Nov)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Minggu Indeks Aktiviti Permohonan Gadai Janji MBA Pada Minggu--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Indeks Kos Buruh Suku Tahunan (Suku 3)--
R: --
S: --
Kanada Kadar Sasaran Semalaman--
R: --
S: --
Laporan Dasar Monetari BOC
Amerika Syarikat Perubahan Stok Petrol Mingguan EIA--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Permintaan Mingguan Untuk Pengeluaran Minyak Mentah Dijangka Daripada Volum Pengeluaran EIA--
R: --
S: --
Amerika Syarikat EIA Cushing Mingguan , Perubahan Stok Minyak Mentah Oklahoma--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Perubahan Saham Mentah Mingguan EIA--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Perubahan Dalam Import Minyak Mentah EIA Untuk Minggu Ini--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Perubahan Inventori Minyak Pemanas EIA Mingguan--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jangkaan Kadar Dana Fed - Jangka Panjang (Suku 4)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jangkaan Kadar Dana Fed - Tahun Pertama (Suku 4)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jangkaan Kadar Dana Fed - Tahun Kedua (Suku 4)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Had Dibuat FOMC (ON RRP)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Baki Bajet (Nov)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat FOMC (Kadar Langkah Berjaga-Jaga Tambahan)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Nisbah Lebihan Rizab Berkesan--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jangkaan Kadar Dana Fed - Semasa (Suku 4)--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Sasaran Untuk Kadar Dana Persekutuan--
R: --
S: --
Amerika Syarikat Jangkaan Kadar Dana Fed - Tahun 3 (Suku 4)--
R: --
S: --
Penyata FOMC
Sidang Akhbar FOMC
Brazil Kadar Sasaran Selic--
R: --
S: --


Tiada data yang sepadan
Aliran Pasaran
Indikator Teratas
Pandangan Terkini
Pandangan Terkini
Topik Trending
Kolumnis Top
Maklumat terkini
White Label
Data API
Web Plug-in
Program Afiliate
Lihat Semua

Tiada data





Lợi nhuận nhóm doanh nghiệp gạo niêm yết tăng mạnh trong quý 3/2025 nhờ tiết giảm chi phí và biên lãi gộp cải thiện. Tuy nhiên, chiến lược tích trữ hàng tồn kho và rủi ro thị trường xuất khẩu đang đặt ra câu hỏi về tính bền vững của đà hồi phục.
Ngành lúa gạo Việt Nam vừa trải qua một quý 3 nhiều mâu thuẫn. Theo dữ liệu VietstockFinance, tổng doanh thu của 9 doanh nghiệp gạo niêm yết giảm 23% so với cùng kỳ, còn hơn 8,300 tỷ đồng, trong khi lợi nhuận ròng của cả nhóm tăng mạnh 93% - dù quy mô chỉ đạt hơn 66 tỷ đồng. Sự cải thiện lợi nhuận không đến từ mở rộng bán hàng mà từ khả năng quản lý chi phí và biên lãi gộp trung bình toàn ngành đã cải thiện gần 2 điểm %, lên mức 9.6%.
Đáng chú ý, toàn bộ 9 doanh nghiệp khảo sát đều có lãi trong quý, không còn đơn vị báo lỗ như cùng kỳ năm trước. Tuy vậy, bức tranh hiệu suất vẫn phân hóa, có 4 doanh nghiệp tăng lãi, 3 doanh nghiệp giảm lãi và 2 công ty chuyển từ lỗ sang lãi.
Cú lội ngược dòng ngoạn mục
Tổng Công ty Lương thực Miền Nam (Vinafood II, VSF) là trường hợp nổi bật nhất với mức tăng lãi ròng hơn 5,500%, đạt trên 13 tỷ đồng, mức cao nhất kể từ đầu năm 2024, dù doanh thu quý sụt 28% xuống hơn 3,800 tỷ đồng, mức thấp nhất 3 năm. Động lực chính nằm ở việc giá vốn giảm nhanh hơn doanh thu, giúp biên lãi gộp vượt mốc 10%, mức cao nhất 7 năm, cùng chiến lược giảm chi phí tài chính 41% và cắt giảm chi phí quản lý 21%.
Kết quả kinh doanh hàng quý giai đoạn 2024-2025 của Vinafood II
Sự bùng nổ này đặc biệt có ý nghĩa khi nhìn vào bối cảnh lịch sử của VSF, một doanh nghiệp Nhà nước từng là trụ cột xuất khẩu nhưng đã trải qua một chuỗi thua lỗ kéo dài cả thập niên (2013-2022) và các sai phạm của lãnh đạo sau cổ phần hóa năm 2018. Dẫu vậy, VSF vẫn gánh lỗ lũy kế gần 2,783 tỷ đồng, khiến kết quả quý 3 chỉ là tín hiệu phục hồi ban đầu.
Nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực. Xuất nhập khẩu Kiên Giang (Kigimex, KGM) và Thương mại Kiên Giang (KTC) báo lãi tăng lần lượt 184% và 105%, đạt trên 3 tỷ đồng và 10 tỷ đồng, dù giá trị tuyệt đối còn nhỏ và biên lợi nhuận mỏng vốn là đặc thù của ngành lúa gạo.
Sự phục hồi còn mong manh
Hai trường hợp của Trung An (TAR) và CTCP Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh (Foodcosa, FCS) đại diện cho nhóm doanh nghiệp đã thoát lỗ thành công.
Trung An chấm dứt chuỗi 5 quý lỗ với lãi hơn 2 tỷ đồng nhờ doanh thu tăng 30% và cắt giảm mạnh chi phí tài chính. Dù vậy, Công ty chỉ thu hẹp được khoản lỗ ròng 9 tháng xuống dưới 21 tỷ đồng, so với mức âm 31 tỷ đồng cùng kỳ, kém xa mục tiêu lãi 9 tỷ đồng cả năm.
Kết quả kinh doanh hàng quý giai đoạn 2024-2025 của Trung An
Foodcosa (FCS) thoát lỗ quý với khoản lãi nhỏ chỉ hơn 60 triệu đồng, nhờ tiết giảm giá vốn, nhưng vẫn gánh lỗ lũy kế trên 200 tỷ đồng và tình trạng thiếu hụt vốn lưu động nghiêm trọng, buộc Công ty phải tận dụng triệt để các nguồn lực sẵn có để duy trì hoạt động.
Đầu ngành hụt hơi
Trái ngược với các trường hợp phục hồi, doanh nghiệp đầu ngành - Tập đoàn Giống cây trồng Việt Nam (Vinaseed, NSC) lại có quý yếu nhất kể từ 2020 khi lãi ròng giảm 27% xuống 26.6 tỷ đồng và biên lãi gộp co xuống mức 19% - thấp hơn cả mức đáy 23% được ghi nhận gần 2 thập kỷ trước.
Nguyên nhân chính là do giá vốn tăng 7% trong khi doanh thu giảm 1%. Phía Công ty giải trình, yếu tố năm nhuận đã làm dịch chuyển thời vụ, ảnh hưởng đến tiến độ bán hàng. Mặc dù vậy, xét về giá trị tuyệt đối, Vinaseed vẫn là Doanh nghiệp dẫn đầu ngành về lợi nhuận theo giá trị tuyệt đối.
Kết quả kinh doanh hàng quý giai đoạn 2020-2025 của Vinaseed
Các doanh nghiệp khác cũng ghi nhận giảm lãi gồm SSC (-34%), TCO (-28%) và MCF (-10%). Dù vậy, bức tranh 9 tháng của TCO, một "tân binh" mới chuyển hướng sang ngành gạo, vẫn cho thấy kết quả khả quan nhờ tăng trưởng lợi nhuận tích lũy, đạt gần 41 tỷ đồng (tăng 150%), tiến sát nút kế hoạch năm.
Chiến lược "ôm hàng" trên nền xuất khẩu suy yếu
Ngoài kết quả kinh doanh, các quyết định về quản lý tài sản, đặc biệt là hàng tồn kho, cũng hé lộ những chiến lược riêng của từng doanh nghiệp trước biến động thị trường. Xu hướng chung toàn ngành cho thấy các doanh nghiệp đang có chiến lược "ôm hàng" khá rõ rệt.
Tính đến cuối tháng 9/2025, tổng tồn kho của 9 doanh nghiệp đạt gần 4,800 tỷ đồng, tăng 22% so với đầu năm. Mức tăng này phân bổ không đồng đều giữa các công ty. Vinaseed tăng tồn kho tỷ lệ lớn nhất tới 87%, đạt hơn 1,035 tỷ đồng, nhưng đáng báo động là lượng hàng thành phẩm tồn kho của Công ty gấp đôi đầu năm, chiếm tới 95%, tạo rủi ro tắc nghẽn đầu ra và áp lực dòng tiền. Vinafood II giữ lượng tồn kho lớn nhất về giá trị tuyệt đối với hơn 1,918 tỷ đồng, tăng 19%, trong đó thành phẩm chiếm 40% và nguyên liệu 39%. Ngược lại, Kigimex là trường hợp hiếm hoi quản lý tồn kho hiệu quả khi giảm 33% xuống dưới 350 tỷ đồng, với thành phẩm chỉ chiếm 16%, cho thấy khả năng quay vòng hàng tốt hơn.
Chiến lược "ôm hàng" trong bối cảnh xuất khẩu giảm cả về lượng và kim ngạch đang là canh bạc rủi ro, đặc biệt khi 2 thị trường lớn là Philippines và Indonesia đã tạm ngừng nhập khẩu. Nếu đầu ra không sớm được mở lại, áp lực tồn kho sẽ càng làm suy yếu dòng tiền và lợi nhuận. Trong bối cảnh đó, Hiệp hội Lương thực Việt Nam kêu gọi doanh nghiệp bình tĩnh và tránh bán phá giá, đồng thời mở rộng tìm kiếm thị trường mới và gia tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm.
Nhìn tổng thể, sự phục hồi lợi nhuận ấn tượng của nhóm doanh nghiệp gạo niêm yết trong quý 3 chủ yếu đến từ các yếu tố nội tại như quản trị chi phí và cải thiện biên lợi nhuận. Tuy nhiên, thành quả này đang phải đối mặt với một phép thử rất lớn từ những bất ổn của thị trường quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có chiến lược thích ứng linh hoạt và bền vững trong thời gian tới.
Thành công dài hạn của ngành sẽ phụ thuộc vào khả năng doanh nghiệp tăng cường giá trị gia tăng, mở rộng thị trường xuất khẩu thay thế và quản trị vốn lưu động khôn ngoan để vượt qua giai đoạn nhiều thử thách này.
Theo số liệu từ Cục Hải quan, trong 9 tháng đầu năm, sản lượng xuất khẩu đạt hơn 6.8 triệu tấn, giảm 2% so với cùng kỳ, trong khi kim ngạch chỉ còn gần 3.5 tỷ USD, giảm 20% và giá xuất khẩu bình quân giảm 18.3% xuống 511 USD/tấn.
Philippines, thị trường lớn nhất chiếm 43.1% tổng khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, đã tạo ra một "cú sốc" lớn trong tháng 9. Việc quốc gia này tạm ngừng nhập khẩu từ ngày 01/09 đã khiến xuất khẩu sang thị trường này trong tháng 9 giảm sốc, tụt tới 92.2% về lượng và 93.4% về trị giá, đẩy Philippines từ vị trí số 1 xuống thứ 6.
Thế Mạnh
FILI - 12:00:00 12/11/2025
Ngành gạo quý 3: Niềm vui lợi nhuận, nỗi lo đầu ra
Lợi nhuận nhóm doanh nghiệp gạo niêm yết tăng mạnh trong quý 3/2025 nhờ tiết giảm chi phí và biên lãi gộp cải thiện. Tuy nhiên, chiến lược tích trữ hàng tồn kho và rủi ro thị trường xuất khẩu đang đặt ra câu hỏi về tính bền vững của đà hồi phục.
Gian hàng bày bán gạo Việt - Ảnh: Thế Mạnh
Ngành lúa gạo Việt Nam vừa trải qua một quý 3 nhiều mâu thuẫn. Theo dữ liệu VietstockFinance, tổng doanh thu của 9 doanh nghiệp gạo niêm yết giảm 23% so với cùng kỳ, còn hơn 8,300 tỷ đồng, trong khi lợi nhuận ròng của cả nhóm tăng mạnh 93% - dù quy mô chỉ đạt hơn 66 tỷ đồng. Sự cải thiện lợi nhuận không đến từ mở rộng bán hàng mà từ khả năng quản lý chi phí và biên lãi gộp trung bình toàn ngành đã cải thiện gần 2 điểm %, lên mức 9.6%.
Đáng chú ý, toàn bộ 9 doanh nghiệp khảo sát đều có lãi trong quý, không còn đơn vị báo lỗ như cùng kỳ năm trước. Tuy vậy, bức tranh hiệu suất vẫn phân hóa, có 4 doanh nghiệp tăng lãi, 3 doanh nghiệp giảm lãi và 2 công ty chuyển từ lỗ sang lãi.
Cú lội ngược dòng ngoạn mục
Tổng Công ty Lương thực Miền Nam (Vinafood II, VSF) là trường hợp nổi bật nhất với mức tăng lãi ròng hơn 5,500%, đạt trên 13 tỷ đồng, mức cao nhất kể từ đầu năm 2024, dù doanh thu quý sụt 28% xuống hơn 3,800 tỷ đồng, mức thấp nhất 3 năm. Động lực chính nằm ở việc giá vốn giảm nhanh hơn doanh thu, giúp biên lãi gộp vượt mốc 10%, mức cao nhất 7 năm, cùng chiến lược giảm chi phí tài chính 41% và cắt giảm chi phí quản lý 21%.
Sự bùng nổ này đặc biệt có ý nghĩa khi nhìn vào bối cảnh lịch sử của VSF, một doanh nghiệp Nhà nước từng là trụ cột xuất khẩu nhưng đã trải qua một chuỗi thua lỗ kéo dài cả thập niên (2013-2022) và các sai phạm của lãnh đạo sau cổ phần hóa năm 2018 Dẫu vậy, VSF vẫn gánh lỗ lũy kế gần 2,783 tỷ đồng, khiến kết quả quý 3 chỉ là tín hiệu phục hồi ban đầu.
Nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực. Xuất nhập khẩu Kiên Giang (Kigimex, KGM) và Thương mại Kiên Giang (KTC) báo lãi tăng lần lượt 184% và 105%, đạt trên 3 tỷ đồng và 10 tỷ đồng, dù giá trị tuyệt đối còn nhỏ và biên lợi nhuận mỏng vốn là đặc thù của ngành lúa gạo.
Sự phục hồi còn mong manh
Hai trường hợp của Trung An (TAR) và CTCP Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh (Foodcosa, FCS) đại diện cho nhóm doanh nghiệp đã thoát lỗ thành công.
Trung An chấm dứt chuỗi 5 quý lỗ với lãi hơn 2 tỷ đồng nhờ doanh thu tăng 30% và cắt giảm mạnh chi phí tài chính. Dù vậy, Công ty chỉ thu hẹp được khoản lỗ ròng 9 tháng xuống dưới 21 tỷ đồng, so với mức âm 31 tỷ đồng cùng kỳ, kém xa mục tiêu lãi 9 tỷ đồng cả năm.
Foodcosa (FCS) thoát lỗ quý với khoản lãi nhỏ chỉ hơn 60 triệu đồng, nhờ tiết giảm giá vốn, nhưng vẫn gánh lỗ lũy kế trên 200 tỷ đồng và tình trạng thiếu hụt vốn lưu động nghiêm trọng, buộc Công ty phải tận dụng triệt để các nguồn lực sẵn có để duy trì hoạt động.
Đầu ngành hụt hơi
Trái ngược với các trường hợp phục hồi, doanh nghiệp đầu ngành - Tập đoàn Giống cây trồng Việt Nam (Vinaseed, NSC) lại có quý yếu nhất kể từ 2020 khi lãi ròng giảm 27% xuống 26.6 tỷ đồng và biên lãi gộp co xuống mức 19% - thấp hơn cả mức đáy 23% được ghi nhận gần 2 thập kỷ trước.
Nguyên nhân chính là do giá vốn tăng 7% trong khi doanh thu giảm 1%. Phía Công ty giải trình, yếu tố năm nhuận đã làm dịch chuyển thời vụ, ảnh hưởng đến tiến độ bán hàng. Mặc dù vậy, xét về giá trị tuyệt đối, Vinaseed vẫn là Doanh nghiệp dẫn đầu ngành về lợi nhuận theo giá trị tuyệt đối.
Các doanh nghiệp khác cũng ghi nhận giảm lãi gồm SSC (-34%), TCO (-28%) và MCF (-10%). Dù vậy, bức tranh 9 tháng của TCO, một "tân binh" mới chuyển hướng sang ngành gạo, vẫn cho thấy kết quả khả quan nhờ tăng trưởng lợi nhuận tích lũy, đạt gần 41 tỷ đồng (tăng 150%), tiến sát nút kế hoạch năm.
Chiến lược "ôm hàng" trên nền xuất khẩu suy yếu
Ngoài kết quả kinh doanh, các quyết định về quản lý tài sản, đặc biệt là hàng tồn kho, cũng hé lộ những chiến lược riêng của từng doanh nghiệp trước biến động thị trường. Xu hướng chung toàn ngành cho thấy các doanh nghiệp đang có chiến lược "ôm hàng" khá rõ rệt.
Tính đến cuối tháng 9/2025, tổng tồn kho của 9 doanh nghiệp đạt gần 4,800 tỷ đồng, tăng 22% so với đầu năm. Mức tăng này phân bổ không đồng đều giữa các công ty. Vinaseed tăng tồn kho tỷ lệ lớn nhất tới 87%, đạt hơn 1,035 tỷ đồng, nhưng đáng báo động là lượng hàng thành phẩm tồn kho của Công ty gấp đôi đầu năm, chiếm tới 95%, tạo rủi ro tắc nghẽn đầu ra và áp lực dòng tiền. Vinafood II giữ lượng tồn kho lớn nhất về giá trị tuyệt đối với hơn 1,918 tỷ đồng, tăng 19%, trong đó thành phẩm chiếm 40% và nguyên liệu 39%. Ngược lại, Kigimex là trường hợp hiếm hoi quản lý tồn kho hiệu quả khi giảm 33% xuống dưới 350 tỷ đồng, với thành phẩm chỉ chiếm 16%, cho thấy khả năng quay vòng hàng tốt hơn.
Chiến lược "ôm hàng" trong bối cảnh xuất khẩu giảm cả về lượng và kim ngạch đang là canh bạc rủi ro, đặc biệt khi 2 thị trường lớn là Philippines và Indonesia đã tạm ngừng nhập khẩu. Nếu đầu ra không sớm được mở lại, áp lực tồn kho sẽ càng làm suy yếu dòng tiền và lợi nhuận. Trong bối cảnh đó, Hiệp hội Lương thực Việt Nam kêu gọi doanh nghiệp bình tĩnh và tránh bán phá giá, đồng thời mở rộng tìm kiếm thị trường mới và gia tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm.
Nhìn tổng thể, sự phục hồi lợi nhuận ấn tượng của nhóm doanh nghiệp gạo niêm yết trong quý 3 chủ yếu đến từ các yếu tố nội tại như quản trị chi phí và cải thiện biên lợi nhuận. Tuy nhiên, thành quả này đang phải đối mặt với một phép thử rất lớn từ những bất ổn của thị trường quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có chiến lược thích ứng linh hoạt và bền vững trong thời gian tới.
Thành công dài hạn của ngành sẽ phụ thuộc vào khả năng doanh nghiệp tăng cường giá trị gia tăng, mở rộng thị trường xuất khẩu thay thế và quản trị vốn lưu động khôn ngoan để vượt qua giai đoạn nhiều thử thách này.
Theo số liệu từ Cục Hải quan, trong 9 tháng đầu năm, sản lượng xuất khẩu đạt hơn 6.8 triệu tấn, giảm 2% so với cùng kỳ, trong khi kim ngạch chỉ còn gần 3.5 tỷ USD, giảm 20% và giá xuất khẩu bình quân giảm 18.3% xuống 511 USD/tấn.
Philippines, thị trường lớn nhất chiếm 43.1% tổng khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, đã tạo ra một "cú sốc" lớn trong tháng 9. Việc quốc gia này tạm ngừng nhập khẩu từ ngày 01/09 đã khiến xuất khẩu sang thị trường này trong tháng 9 giảm sốc, tụt tới 92.2% về lượng và 93.4% về trị giá, đẩy Philippines từ vị trí số 1 xuống thứ 6.




Thống kê giao dịch tuần 18-22/8/2025, cho thấy, phần lớn lãnh đạo và người thân có xu hướng bán cổ phiếu hơn là mua vào, xét cả chiều giao dịch và đăng ký.
Chủ tịch Đua Fat tiếp tục bị bán giải chấp hơn 14.7 triệu cp
3 phiên 19, 20 và 21/8, ông Lê Duy Hưng - Chủ tịch HĐQT CTCP Tập đoàn Đua Fat bị công ty chứng khoán bán giải chấp hơn 14.7 triệu cp, giảm tỷ lệ sở hữu từ 42.16% xuống còn 23.73%, tương đương gần 19 triệu cp.
Chiếu theo giá đóng cửa trung bình 3 phiên kể trên ở mức 1,567 đồng/cp, ước tính số cổ phiếu bị bán giải chấp của Chủ tịch DFF trị giá hơn 23 tỷ đồng.
Trước đó trong hai phiên 18 và 19/2/2025, ông Hưng cũng bị công ty chứng khoán bán giải chấp hơn 4 triệu cp, giảm tỷ lệ sở hữu từ hơn 47% xuống còn hơn 42%. Như vậy, tính từ đầu năm đến nay, Chủ tịch DFF đã bị bán giải chấp hơn 18.7 triệu cp, tương đương hơn 23% vốn.
Hoán đổi sở hữu của cha con bầu Đức tại HAG
Ông Đoàn Nguyên Đức (bầu Đức), Chủ tịch HĐQT CTCP Hoàng Anh Gia Lai , báo cáo bán thành công 25 triệu cp HAG đăng ký qua phương thức thỏa thuận, giảm tỷ lệ sở hữu từ 31.2% xuống 28.84%, tương ứng còn gần 305 triệu cp. Giao dịch diễn ra từ ngày 18-22/8.
Ở chiều ngược lại, con trai ông Đức là Đoàn Hoàng Nam đã mua mới thành công 27 triệu cp HAG cũng qua thỏa thuận trong ngày 22/8, nâng tỷ lệ sở hữu từ 0% lên 2.55% vốn.
Báo cáo quản trị 6 tháng đầu năm 2025 cho thấy, gia đình bầu Đức còn có con gái là Đoàn Hoàng Anh nắm giữ 13 triệu cp, tương ứng 1.23% vốn. Tính chung, 3 cha con hiện sở hữu khoảng 32.62% vốn HAGL.
Công ty của Chủ tịch MBG bán ra 4.25 triệu cp
Từ ngày 8-15/8, CTCP Quốc bảo Vạn Ninh đã bán ra 4.25 triệu cp MBG của CTCP Tập đoàn MBG, tương đương 3.54% vốn MBG. Sau giao dịch, Quốc bảo Vạn Ninh không còn sở hữu vốn tại đây nữa. Chiếu theo giá đóng cửa bình quân giai đoạn 8-15/8 là 4,300 đồng/cp, giao dịch ước tính có giá trị gần 18.3 tỷ đồng.
Ông Phạm Huy Thành - Chủ tịch HĐQT MBG cũng đồng thời là Chủ tịch HĐQT của Quốc Bảo Vạn Ninh. Hiện tại, ông Thành đang nắm giữ hơn 11.5 triệu cp MBG (tỷ lệ 9.58%).
Tổ chức liên quan lãnh đạo FCS muốn bán 2 triệu cp
CTCP Đầu tư Song Mộc vừa đăng ký bán 2 triệu cp của CTCP Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh (Foodcosa, UPCoM: FCS) từ 22/8-19/9 nhằm cơ cấu danh mục đầu tư.
Nếu giao dịch thành công, tỷ lệ sở hữu của Đầu tư Song Mộc tại FCS sẽ giảm từ 24.25% (hơn 7.1 triệu cp) xuống còn 17.46% (hơn 5.1 triệu cp). Tạm tính, thương vụ có thể mang về khoảng 16.2 tỷ đồng dựa trên mức giá 8,100 đồng/cp của FCS trong phiên chiều 21/8.
Đầu tư Song Mộc có mối liên hệ mật thiết với FCS khi 3 lãnh đạo gồm bà Nguyễn Ngọc Mai Trinh - Thành viên BKS, bà Phan Thị Bích Tuyên - Thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc và bà Phạm Thị Thúy Hằng - Phó Tổng Giám đốc đều là đại diện phần vốn góp của tổ chức này, song không nắm giữ cổ phần FCS dưới danh nghĩa cá nhân.
Tổng Giám đốc QPH muốn thoái sạch vốn
Ông Lê Thái Hưng - Thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc CTCP Thủy điện Quế Phong (UPCoM: QPH) đăng ký bán toàn bộ hơn 1.3 triệu cp (7.18%) nắm giữ, với mục đích cơ cấu lại danh mục.
Thời gian giao dịch dự kiến từ 8/9-6/10. Tạm tính theo giá cổ phiếu QPH hiện tại (36,500 đồng/cp), ông Hưng có thể thu về gần 49 tỷ đồng từ thương vụ.
Ông Hưng hiện là 1 trong 2 cổ đông lớn của QPH. Cổ đông lớn còn lại là công ty mẹ CTCP Điện lực Trung Sơn với tỷ lệ 85.52%.
Phó Chủ tịch RCC đăng ký bán toàn bộ cổ phần
Ông Tạ Hữu Diễn, Phó Chủ tịch HĐQT CTCP Tổng Công ty Công trình Đường sắt (UPCoM: RCC), đăng ký thoái toàn bộ hơn 6.24 triệu cp, tương ứng 19.46% vốn. Giao dịch dự kiến diễn ra từ 20/8-18/9 theo phương thức thỏa thuận và khớp lệnh, với mục đích đầu tư cá nhân.
Cùng khoảng thời gian, con dâu ông Diễn là bà Nguyễn Thùy Linh - Người phụ trách quản trị Công ty cũng đăng ký bán hơn 440 ngàn cp RCC với mục đích đầu tư cá nhân.
Điện lực Trung Sơn muốn thoái toàn bộ 86% vốn SVH
Sau hơn 7 năm nắm giữ, CTCP Điện lực Trung Sơn đăng ký bán toàn bộ 12.7 triệu cp, tương đương 86.01% vốn CTCP Thủy điện Sông Vàng (UPCoM: SVH) từ ngày 8/9-6/10. Tính theo giá tham chiếu 6,000 đồng/cp, giá trị thương vụ chỉ còn khoảng 76.5 tỷ đồng, trong khi số vốn bỏ ra ban đầu hơn 127 tỷ đồng.
Chủ tịch HĐQT SVH - ông Lê Thái Hưng hiện cũng là Tổng Giám đốc Điện lực Trung Sơn. Ngoài phần nắm giữ của công ty mẹ, ông Hưng trực tiếp sở hữu gần 1.5 triệu cp SVH, tương ứng 10.03% vốn, là cổ đông lớn thứ 2 tại SVH.
Danh sách lãnh đạo công ty và người thân giao dịch từ ngày 18-22/8/2025
Danh sách lãnh đạo công ty và người thân đăng ký giao dịch từ ngày 18-22/8/2025
Thanh Tú
FILI - 14:53:56 25/08/2025





Lịch chốt quyền trả cổ tức bằng tiền của 10 doanh nghiệp
Thêm 10 doanh nghiệp trên sàn chứng khoán sẽ thực hiện chốt quyền trả cổ tức bằng tiền cho cổ đông
1. CTCP Bia Sài Gòn - Hà Nội (Mã BSH):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 12/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức lần 2 năm 2024: 10% (1.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 26/5/2025
2. CTCP Cấp nước Nam Định (Mã NDW):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 13/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức còn lại năm 2025: 2,4% (240 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 23/5/2025
3. CTCP Dược Đồng Nai (Mã DPP):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 14/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 15% (1.500 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 26/5/2025
4. CTCP 28.1 (Mã AG1):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 14/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 12,5% (1.250 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 26/5/2025
5. CTCP Xây lắp Cơ khí và Lương thực thực phẩm (Mã MCF):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 14/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 6,5% (650 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 28/5/2025
6. CTCP Nước sạch Bắc Giang (Mã BGW):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 15/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 5,7% (570 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 18/6/2025
7. CTCP Thực phẩm Sao Ta (Mã FMC):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 15/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 20% (2.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 26/5/2025
8. CTCP Đầu tư và Phát triển Điện Tây Bắc (Mã NED):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 15/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2022: 5% (500 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 30/5/2025
9. CTCP Đầu tư và Phát triển Giáo dục Phương Nam (Mã SED):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 16/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 20% (2.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 30/5/2025
10. CTCP Nhựa, Bao bì Vinh (Mã VBC):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 28/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 18% (1.800 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 26/6/2025
Lịch chốt quyền trả cổ tức bằng tiền của 10 doanh nghiệp
Thêm 10 doanh nghiệp trên sàn chứng khoán sẽ thực hiện chốt quyền trả cổ tức bằng tiền cho cổ đông
1. CTCP Bia Sài Gòn - Hà Nội (Mã BSH):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 12/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức lần 2 năm 2024: 10% (1.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 26/5/2025
2. CTCP Cấp nước Nam Định (Mã NDW):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 13/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức còn lại năm 2025: 2,4% (240 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 23/5/2025
3. CTCP Dược Đồng Nai (Mã DPP):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 14/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 15% (1.500 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 26/5/2025
4. CTCP 28.1 (Mã AG1):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 14/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 12,5% (1.250 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 26/5/2025
5. CTCP Xây lắp Cơ khí và Lương thực thực phẩm (Mã MCF):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 14/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 6,5% (650 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 28/5/2025
6. CTCP Nước sạch Bắc Giang (Mã BGW):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 15/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 5,7% (570 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 18/6/2025
7. CTCP Thực phẩm Sao Ta (Mã FMC):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 15/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 20% (2.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 26/5/2025
8. CTCP Đầu tư và Phát triển Điện Tây Bắc (Mã NED):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 15/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2022: 5% (500 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 30/5/2025
9. CTCP Đầu tư và Phát triển Giáo dục Phương Nam (Mã SED):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 16/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 20% (2.000 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 30/5/2025
10. CTCP Nhựa, Bao bì Vinh (Mã VBC):
- Ngày đăng ký cuối cùng: 28/5/2025
- Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 18% (1.800 đồng/cổ phiếu)
- Ngày thanh toán: 26/6/2025
Mecofood kỳ vọng đạt 14 tỷ đồng lãi trước thuế năm 2024, xấp xỉ mức thực hiện năm ngoái. Dù vậy, Công ty lại lạc quan về doanh thu khi đặt mục tiêu 572 tỷ đồng, tăng 29%.
Giá lương thực chưa có dấu hiệu hạ nhiệt
Ở lĩnh vực trọng tâm, CTCP Xây lắp Cơ khí và Lương thực Thực phẩm (Mecofood, HNX: MCF) đặt kế hoạch mua vào và bán ra 34,000 tấn lương thực quy gạo (không đổi so với mục tiêu năm 2023), chủ yếu là gạo các loại (33,500 tấn), còn lúa các loại không đáng kể; phần lớn được tiêu thụ tại thị trường nội địa, chiếm 82%, còn lại dành cho xuất khẩu.
Kế hoạch được MCF đặt ra dựa trên nhận định của doanh nghiệp về giá lương thực trong nước tăng lên nhưng chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, đồng thời diễn biến phức tạp khó lường gây khó khăn trong việc thu mua để sản xuất chế biến kinh doanh lương thực.
Trong năm 2024, MCF cho biết sẽ triển khai hợp tác khai thác nhà xưởng, máy móc thiết bị tại phân xưởng 2 xí nghiệp Cao Lãnh trực thuộc Công ty Lương thực Đồng Tháp, nhằm mục đích đầu tư mở rộng địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng lương thực thực phẩm đã được ĐHĐCĐ bất thường năm 2023 phê duyệt.
Ngoài ra, MCF sẽ hướng đến tổ chức tiếp thị, bán hàng vào các thị trường mới với những loại gạo phù hợp với thu nhập người dân, tiếp thị vào các cơ sở chế biến thức ăn nhanh như bún, bánh phở, mì, nui,…
Bên cạnh đó, để chuẩn bị cho nguồn nguyên liệu năm nay, MCF đã ký hợp đồng bao tiêu với hợp tác xã Sản xuất Thương mại Dịch vụ Nông nghiệp Tân Đồng Tiến để thực hiện sản xuất cánh đồng lớn với diện tích 71ha lúa IR50404 tại tỉnh Long An.
Công ty sẽ thực hiện phương thức thu mua lúa tươi của nông dân sau đó vận chuyển về gia công sấy và nhập kho bảo quản, dự kiến thu hoạch trong tháng 01/2024. Năm nay, MCF cũng dự kiến sẽ dành 4.7 tỷ đồng đầu tư vào Xí nghiệp Lương thực Thực phẩm và 3.8 tỷ đồng cho Xí nghiệp Xây lắp Cơ Khí.
Ngoài lương thực, các ngành bao bì – mỹ nghệ, cơ khí và vật liệu xây dựng có đóng góp khiêm tốn hơn vào kết quả kinh doanh của MCF (23% doanh thu và 4% lãi trước thuế năm 2023). Năm nay, Công ty đặt mục tiêu tiếp tục bán ra 7 triệu chiếc bao bì, 20 container mỹ nghệ và 60,000m3 bê tông. Riêng mảng cơ khí được kỳ vọng sẽ bổ sung vào doanh thu 25 tỷ đồng.
MCF cho biết đang tìm mọi biện pháp để giảm giá thành đối với mặt hàng mỹ nghệ, thông qua giám sát chất lượng nguyên liệu đầu vào như lúa non rơm vàng; tăng tỷ lệ thu hồi sấy; tận dụng tối đa nguyên vật liệu sau gia công; sơ chế để đưa vào sản xuất phù hợp với tính chất của từng sản phẩm như giảm lúa phế, rơm phế và tận dụng lúa phế, rơm phế làm shin,…
Thu lãi nhờ giá gạo tăng cao
Năm 2023, mảng lương thực giúp MCF ghi nhận doanh thu 345 tỷ đồng (khoảng 77% tổng doanh thu), tăng 14% so với cùng kỳ năm 2022 dù sản lượng quy gạo tăng nhẹ gần 6% (25.2 ngàn tấn). Mảng này tiếp tục đóng góp chính, cũng thu về 13.4 tỷ đồng lãi trước thuế (97% tổng lãi), trong đó 83% đến từ thị trường nội địa.
Công ty cho biết nhờ giá gạo tăng đột biến và nắm bắt tình hình thị trường nên giá nguyên liệu bình quân tồn kho thấp, làm hiệu quả tăng mạnh và mang lại lãi lớn dù chỉ thực hiện 74% kế hoạch doanh thu.
Mảng bao bì – mỹ nghệ thì không được may mắn như vậy khi chỉ đạt hơn 50% mục tiêu đặt ra. Tình hình khó khăn khiến việc bán 7 triệu chiếc bao bì trong năm ngoái không thể thực hiện được, chưa kể cạnh tranh về giá bán khốc liệt. Điều này khiến MCF phải giảm giá mới bán được hàng, góp phần làm giảm tổng lợi nhuận, Công ty nhận định. Tương tự, nhu cầu sử dụng mặt hàng mỹ nghệ cũng ở mức thấp, phía khách hàng nước ngoài cắt giảm sản lượng hoặc thậm chí không đặt hàng.
Các công trình chậm khởi công hoặc triển khai hoạt động cầm chừng được MCF đánh giá là nguyên nhân ảnh hưởng đến sản lượng bê tông, khiến mảng này cũng không hoàn thành kế hoạch đã đề ra trước đó. Năm ngoái, MCF bán gần 38,000 m3 bê tông, thực hiện 58% chỉ tiêu và giảm 32% so với cùng thời điểm năm 2022. Công ty chủ yếu khai thác các công trình tư nhân và nhà dân nên sản lượng bán ra thấp.
Duy nhất mảng cơ khí tăng trưởng doanh thu khi mang về 22 tỷ đồng, tăng 30% và vượt 10% kế hoạch nhờ ký được một số hợp đồng gia công lắp đặt thiết bị với khách hàng ngoài và một số hợp đồng sửa chữa, di dời máy móc thiết bị trong hệ thống Tổng công ty.
Kết quả, MCF ghi nhận 446 tỷ đồng tổng doanh thu, tăng 5% và thực hiện 87% kế hoạch. Thuận lợi từ mảng lương thực giúp Công ty hoàn thành chỉ tiêu lãi trước thuế, 13.9 tỷ đồng, còn lãi ròng 11 tỷ đồng và gần như đi ngang suốt từ năm 2017 đến nay.
Diễn biến lãi ròng của MCF từ năm 2008 đến nay
Trong năm 2023, Chủ tịch HĐQT Bạch Ngọc Văn nhận 10 triệu đồng thù lao, trong khi đó Phó Chủ tịch HĐQT Nguyễn Văn Kiệt được trả 509 triệu đồng (501 triệu đồng năm 2022), chiếm hơn nửa số tiền chi cho tất cả thành viên. Tổng Giám đốc Lê Trường Sơn nhận 491 triệu đồng (430 triệu đồng năm 2022), khoảng 36% tổng chi cho Ban Tổng Giám đốc.
Đến cuối năm ngoái, Tổng Công ty Lương thực Miền Nam – CTCP nắm 60% vốn tại MCF. Ông Văn và ông Kiệt đại diện sở hữu lần lượt 20% và 10%. Ngoài ra, đại diện còn có Phó Chủ tịch HĐQT Lê Mai Hân (10%), Thành viên HĐQT Hồ Thị Cẩm Vân (10%), Thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Bình Hiển (10%).
Tử Kính
FILI
White Label
Data API
Web Plug-in
Pembuat Poster
Program Afiliate
Risiko kerugian dalam perdagangan instrumen kewangan seperti saham, FX, komoditi, niaga hadapan, bon, ETF dan kripto boleh menjadi besar. Anda mungkin mengalami kerugian keseluruhan dana yang anda depositkan dengan broker anda. Oleh itu, anda harus mempertimbangkan dengan teliti sama ada perdagangan sedemikian sesuai untuk anda berdasarkan keadaan dan sumber kewangan anda.
Tiada keputusan untuk melabur harus dibuat tanpa menjalankan usaha wajar secara menyeluruh sendiri atau berunding dengan penasihat kewangan anda. Kandungan web kami mungkin tidak sesuai dengan anda kerana kami tidak mengetahui keadaan kewangan dan keperluan pelaburan anda. Maklumat kewangan kami mungkin mempunyai kependaman atau mengandungi ketidaktepatan, jadi anda harus bertanggungjawab sepenuhnya untuk sebarang keputusan perdagangan dan pelaburan anda. Syarikat tidak akan bertanggungjawab ke atas kehilangan modal anda.
Tanpa mendapat kebenaran daripada tapak web, anda tidak dibenarkan menyalin grafik, teks atau tanda dagangan tapak web. Hak harta intelek dalam kandungan atau data yang dimasukkan ke dalam laman web ini adalah milik pembekal dan pedagang pertukarannya.
Tidak log masuk
Log masuk untuk mengakses lebih banyak ciri

Keahlian FastBull
Belum lagi
Belian
Log masuk
Daftar