Kutipan
Berita
Analisis
Pengguna
24/7
Kalender Ekonomi
Pendidikan
Data
- Nama
- Nilai Terbaru
- Sblm.












Akun Sinyal untuk Anggota
Semua Akun Sinyal
Semua Kontes



Perancis Akun Perdagangan (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)S:--
P: --
Zona Euro Jumlah Tenaga Kerja YoY(Penyesuaian Per Kuartal) (kuartal 3)S:--
P: --
Kanada Jumlah Tenaga Kerja Paruh Waktu (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Kanada Tingkat Pengangguran (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Kanada Jumlah Tenaga Kerja Permanen (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Kanada Partisipasi Ketenagakerjaan (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Kanada Jumlah Tenaga Kerja (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Harga Komoditas PCE MoM (Sep)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Pendapatan Pribadi MoM (Sep)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Harga PCE Inti MoM (Sep)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Harga Komoditas PCE YoY (Penyesuaian Per Kuartal) (Sep)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Harga PCE Inti YoY (Sep)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Pengeluaran Pribadi MoM (Penyesuaian Per Kuartal) (Sep)S:--
P: --
Amerika Serikat Ekspektasi Inflasi 5-10-Tahun (Des)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Pengeluaran Konsumsi Pribadi Riil MoM (Sep)S:--
P: --
Amerika Serikat Total Pengeboran MingguanS:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Total Nilai Pengeboran Bahan Bakar Fosil MingguanS:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Pinjaman Konsumsi (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)S:--
P: --
China, Daratan Cadangan Devisa (Nov)S:--
P: --
S: --
Jepang Akun Perdagangan (Okt)S:--
P: --
S: --
Jepang Revisi PDB Nominal QoQ (kuartal 3)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Nilai Impor YoY (CNY) (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Ekspor (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Nilai Impor (CNY) (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Akun Perdagangan (CNY) (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Nilai Ekspor YoY (USD) (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Nilai Impor YoY (USD) (Nov)S:--
P: --
S: --
Jerman Output Industri MoM (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)S:--
P: --
Zona Euro Indeks Keyakinan Investor Sentrix (Des)S:--
P: --
S: --
Kanada Indeks Keyakinan Ekonomi NasionalS:--
P: --
S: --
U.K. Tingkat Penjualan Ritel Sejenis BRC YoY (Nov)--
P: --
S: --
U.K. Total Penjualan Ritel BRC YoY (Nov)--
P: --
S: --
Australia Bunga Pinjaman Semalam--
P: --
S: --
Pernyataan Suku Bunga RBA
Konferensi Pers RBA
Jerman Ekspor MoM (SA) (Okt)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Kepercayaan Industri Kecil NFIB (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)--
P: --
S: --
Meksiko Inflasi 12 Bulan (CPI) (Nov)--
P: --
S: --
Meksiko IHK Inti YoY (Nov)--
P: --
S: --
Meksiko Indeks Harga Produsen (IHP) YoY (Nov)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Nilai Penjualan Bisnis Retail Mingguan Redbook YoY--
P: --
S: --
Amerika Serikat Tingkat Lowongan Pekerjaan - JOLTS (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)--
P: --
S: --
China, Daratan Uang Beredar M1 YoY (Nov)--
P: --
S: --
China, Daratan Uang Beredar M0 YoY (Nov)--
P: --
S: --
China, Daratan Uang Beredar M2 YoY (Nov)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perkiraan Produksi Minyak Mentah Jangka-Pendek EIA Tahun Tsb. (Des)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perkiraan Produksi Gas Alam EIA Tahun Depan (Des)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perkiraan Produksi Minyak Mentah Jangka-Pendek EIA Tahun Depan (Des)--
P: --
S: --
Prospek Energi Jangka Pendek Bulanan EIA
Amerika Serikat Stok Bensin API Mingguan--
P: --
S: --
Amerika Serikat Stok Minyak Mentah Cushing API Mingguan--
P: --
S: --
Amerika Serikat Stok Minyak Mentah API Mingguan--
P: --
S: --
Amerika Serikat Stok Minyak Olahan API Mingguan--
P: --
S: --
Korea Selatan Tingkat Pengangguran (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)--
P: --
S: --
Jepang Indeks Difusi Non-Manufaktur Reuters Tanken (Des)--
P: --
S: --
Jepang Indeks Difusi Manufaktur Reuters Tanken (Des)--
P: --
S: --
Jepang Indeks Harga Produk Domestik MoM (Nov)--
P: --
S: --
Jepang Indeks Harga Produk Domestik YoY (Nov)--
P: --
S: --
China, Daratan Indeks Harga Produsen (IHP) YoY (Nov)--
P: --
S: --
China, Daratan IHK MoM (Nov)--
P: --
S: --
Italia Output Industri YoY (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)--
P: --
S: --


Tidak Ada Data Yang Cocok
Opini Terbaru
Opini Terbaru
Topik Populer
Kolumnis Teratas
Terbaru
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Program Afiliasi
Lihat Semua

Tidak ada data




Các công ty chứng khoán (CTCK) khuyến nghị giữ MSH nhờ quý 3 vừa ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận kỷ lục; CTR khả quan nhờ hưởng lợi từ triển vọng ngành điện; POW khả quan nhờ kết quả kinh doanh cả năm 2025 có thể tích cực hơn dự kiến.
Giữ MSH với giá mục tiêu 42,600 đồng/cp
CTCK Shinhan Việt Nam (SSV) cho biết quý 3/2025, CTCP May Sông Hồng (HOSE: MSH) ghi nhận doanh thu thuần đạt 1,647 tỷ đồng, giảm nhẹ 6% so với cùng kỳ, do mảng FOB (chiếm trung bình khoảng hơn 70% cơ cấu doanh thu của công ty) sụt giảm 36% do hàng tồn kho từ đợt front-loading vẫn còn và tâm lý thận trọng của khách hàng khi thuế quan có hiệu lực.
Tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế quý 3 ghi nhận 201 tỷ đồng (tăng 55% so với cùng kỳ) - mức cao kỷ lục trong lịch sử hoạt động của công ty nhờ (1) Giá vốn hàng bán giảm sâu 13% do ứng dụng công nghệ vào quy trình sản xuất; (2) Biên lợi nhuận mảng CMT tăng trưởng mạnh nhờ đàm phán được các đơn hàng có giá trị gia tăng cao và (3) Thu nhập tài chính cải thiện đến từ khoản đầu tư trái phiếu.
Biên lợi nhuận mảng CMT chủ yếu dao động quanh mức 5-15% và thường xuyên biến động do phụ thuộc nhiều vào khách hàng. Việc biên lợi nhuận gộp CMT quý 3 tăng trưởng cao đạt 25% chủ yếu là do năng lực đàm phán tốt của MSH và xu hướng ưu tiên đơn hàng gia công của khách hàng.
Tổng kết 9 tháng đầu năm 2025, MSH ghi nhận doanh thu thuần đạt 4,149 tỷ đồng (tăng 8%), lợi nhuận sau thuế đạt 468 tỷ đồng (tăng 74%), hoàn thành lần lượt 75% và 95% kế hoạch cả năm.
Quý 4/2025 của MSH được dự báo sẽ tiếp tục ổn định nhờ mùa cao điểm nhập khẩu để chuẩn bị cho dịp lễ hội cuối năm.
Trong năm 2026, SSV cho rằng hoạt động xuất khẩu tại thị trường Mỹ của MSH sẽ tăng trưởng chậm lại. Nguyên nhân là do tác động của thuế quan sẽ chuyển dịch sang năm 2026 và thị trường cần thêm thời gian để kiểm chứng sức mua thực tế cũng như mức độ chấp nhận mặt bằng giá mới. Đồng thời, do đặc thù là nhóm tiêu dùng lâu bền, sản phẩm dệt may thường có tốc độ tiêu thụ hàng tồn kho chậm hơn các mặt hàng khác như thủy sản, khiến chu kỳ đặt hàng mới kéo dài. Trong bối cảnh tồn kho ở mức cao và chi phí logistic còn biến động, các nhà nhập khẩu Mỹ có xu hướng thận trọng hơn trong kế hoạch nhập hàng.
Do vậy, SSV thận trọng dự phóng doanh thu năm 2026 của MSH đạt 5,406 tỷ đồng (giảm 3% so với năm trước). Tuy nhiên, CTCK này cho rằng lợi nhuận sau thuế sẽ diễn biến ngược chiều với doanh thu, dự kiến đạt 686 tỷ đồng, tăng nhẹ 3% nhờ: (1) Năng lực kiểm soát chi phí sản xuất hiệu quả; (2) Giá nguyên vật liệu đầu vào không biến động nhiều và (3) Thu nhập tài chính từ khoản đầu tư trái phiếu tiếp tục gia tăng.
Dự phóng kết quả kinh doanh của MSH giai đoạn 2025-2026
Dựa trên phương pháp DCF, SSV khuyến nghị giữ MSH với giá mục tiêu 42,600 đồng/cp.
CTR khả quan với giá mục tiêu 102,000 đồng/cp
SSI Research cho biết Tổng CTCP Công trình Viettel công bố kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm 2025 với doanh thu gần 10 ngàn tỷ đồng (tăng 9% so với cùng kỳ) và lợi nhuận sau thuế (LNST) đạt 436 tỷ đồng (tăng 12%). Mức tăng trưởng doanh thu nhìn chung phù hợp với kỳ vọng, trong khi lợi nhuận ròng vượt nhẹ dự báo, chủ yếu nhờ thu nhập tài chính cao hơn 9% so với dự báo, phản ánh số dư tiền mặt cuối quý 3 cao hơn dự kiến.
Về cơ cấu doanh thu, mảng xây dựng ghi nhận kết quả yếu hơn dự báo, nhưng được bù đắp bởi kết quả vượt kỳ vọng từ mảng vận hành và mảng giải pháp và dịch vụ kỹ thuật.
Cụ thể, mảng hạ tầng cho thuê ghi nhận mức tăng trưởng doanh thu mạnh nhất (tăng 41%). Tính đến cuối quý 3/2025, CTR sở hữu và quản lý 11,329 trạm BTS (tăng 29% so với cùng kỳ và 13% so với đầu năm), trong đó 385 trạm là trạm dùng chung (tăng 15%).
Khoảng 560 trạm BTS đã được CTR xây dựng trong quý 3/2025. Nếu duy trì tốc độ này trong quý 4/2025, CTR có khả năng hoàn thành mục tiêu xây mới 2,000 trạm BTS trong năm. Tỷ lệ dùng chung ổn định ở mức 1.03.
Mảng giải pháp và dịch vụ kỹ thuật ghi nhận doanh thu tăng 25%. Giải pháp năng lượng mặt trời là động lực tăng trưởng chính. Mảng này đang phục vụ trung bình khoảng 1,200 khách hàng/tháng, mức cao nhất kể từ năm 2019, chiếm 45% thị phần toàn quốc trong 9 tháng đầu năm 2025.
Mảng xây dựng có doanh thu 9 tháng tăng 9% so với cùng kỳ nhưng riêng trong quý 3 lại giảm 6%. CTR duy trì vị thế dẫn đầu thị phần trong lĩnh vực nhà ở, với 450 công trình triển khai mới trong quý 3/2025 (tăng 41%). Giá trị hợp đồng đã ký đạt 3.6 ngàn tỷ đồng (tăng 5%).
Mảng vận hành khai thác ghi nhận doanh thu tăng nhẹ 2%, duy trì hoạt động ổn định tại thị trường trong nước và quốc tế.
Ban lãnh đạo CTR đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ mở rộng thị phần trên tất cả các mảng hoạt động.
Đối với mảng hạ tầng cho thuê, theo Công ty, mặc dù Chính phủ có chủ trương thúc đẩy chia sẻ hạ tầng viễn thông (tăng tỷ lệ dùng chung) nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, SSI Research duy trì quan điểm khả năng cải thiện tỷ lệ dùng chung trong ngắn hạn có thể còn hạn chế.
Trong dài hạn, CTR vẫn duy trì chiến lược “Go Global”, mở rộng mảng vận hành khai thác và tăng cung cấp dịch vụ tại các thị trường quốc tế. Hiện tại, CTR đang có kết quả kinh doanh tốt tại hai thị trường nước ngoài Myanmar và Campuchia.
Đối với mảng giải pháp năng lượng mặt trời, liên quan đến xu hướng phát triển của ngành điện Việt Nam, SSI Research kỳ vọng khả năng giá điện bán lẻ tiếp tục tăng và việc khuyến khích người dân giảm phụ thuộc vào EVN và lưới điện quốc gia sẽ là động lực mạnh cho nhu cầu lắp đặt hệ thống điện mặt trời. Theo đó, SSI Research ước tính mảng năng lượng mặt trời sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình hai chữ số hằng năm trong trung hạn.
Về hoạt động đầu tư, SSI Research cho rằng CTR vẫn tiếp tục quan tâm đến các cơ hội đầu tư liên quan đến năng lượng tái tạo. Trong bối cảnh thị trường viễn thông trong nước đã bão hòa, CTR đang chuyển hướng sang đầu tư và xây dựng hạ tầng thông minh/hạ tầng số, đúng với tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW. Đồng thời, Công ty cũng muốn chủ động tham gia vào các dự án hạ tầng trọng điểm cấp quốc gia.
Với những yếu tố trên, SSI Research khuyến nghị CTR khả quan với giá mục tiêu 102,000 đồng/cp.
Xem thêm tại đây
POW khả quan với giá mục tiêu 16,400 đồng/cp
CTCK ACB (ACBS) cho biết doanh thu quý 3/2025 của Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam - CTCP (HOSE: POW) tăng 30% so với cùng kỳ, đạt 7,855 tỷ đồng, do sản lượng tăng mạnh, đạt 4.3 tỷ kWh, tăng 41%; trong khi giá bán điện bình quân giảm nhẹ 1%, ở mức 1,894 đồng/kWh. Bên cạnh đó, cơ cấu sản lượng huy động cũng thay đổi khi tổng sản lượng thủy điện tăng 34%, đạt 535 triệu kWh (nhờ thời tiết thuận lợi mưa nhiều ở miền Trung và miền Bắc); và điện than tăng 75%, đạt hơn 1 tỷ kWh. Đây là những nguồn điện có chi phí huy động thấp hơn đáng kể so với điện khí nên giúp giảm chi phí chung cho POW.
Bên cạnh đó, POW ghi nhận tiếp 100 tỷ đồng đền bù bảo hiểm trong quý 3/2025. Nhờ đó, lợi nhuận gộp đạt 1,291 tỷ đồng, tăng 336%, biên lãi gộp cải thiện lên 16% từ 5% cùng kỳ. Lãi sau thuế đạt 948 tỷ đồng, tăng 109%, biên lãi ròng tăng từ 8% cùng kỳ lên 12% trong quý 3/2025.
Lũy kế 9 tháng đầu năm 2025, sản lượng đạt 13.4 tỷ kWh, tăng 18% so với cùng kỳ, doanh thu đạt 25,404 tỷ đồng, tăng 17%, lãi gộp đạt 3,275 tỷ đồng, tăng 133%, lãi sau thuế đạt 2,181 tỷ đồng, 109%, biên lãi ròng cải thiện lên 9% từ 5% cùng kỳ.
ACBS cho rằng khi NT3&4 chính thức đi vào vận hành thương mại giữa quý 4/2025, POW sẽ ghi nhận các khoản lỗ từ NT3&4 do chi phí khấu hao, lãi vay và vận hành tăng mạnh trong khi sản lượng và doanh thu đầu ra chưa đủ bù đắp. Tuy nhiên, kết quả kinh doanh cả năm 2025 có thể khả quan hơn nhờ sản lượng và giá bán điện bình quân cao hơn từ các nhà máy hiện có.
Cụ thể, ACBS dự phóng năm 2025, sản lượng của POW đạt 17.5 tỷ kWh, tăng 9% so với năm trước, doanh thu đạt 36,831 tỷ đồng, tăng 20%, lãi sau thuế đạt 1,361 tỷ đồng, tăng 12%, do nhiều chi phí tăng cao như lãi vay, khấu hao và vận hành, trong khi đó doanh thu & sản lượng chưa tăng theo tương ứng do cần thời gian khoảng 2 năm để nhà máy mới đi vào vận hành ổn định.
Đối với năm 2026, với giả định NT3&4 bắt đầu đi vào vận hành ổn định hơn (4.5 tỷ kWh, gần 50% công suất tối đa), sản lượng cả POW dự phóng đạt 18.9 tỷ kWh, tăng 8%, doanh thu đạt 43,553 tỷ đồng, tăng 18%, và lãi sau thuế đạt 1,657 tỷ đồng, tăng 22%.
Dự phóng kết quả kinh doanh của POW giai đoạn 2025-2026
Dựa trên phương pháp FCFF, ACBS khuyến nghị POW khả quan với giá mục tiêu 16,400 đồng/cp.
Thượng Ngọc
FILI - 10:49:31 10/11/2025





Doanh thu quý 3 của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán tăng 6%, lợi nhuận toàn ngành đạt hơn 70 tỷ đồng, đảo chiều so với khoản lỗ hơn 60 tỷ đồng ở cùng kỳ, đánh dấu quý thứ 2 liên tiếp có lãi. Động lực giải ngân vốn đầu tư công và thị trường bất động sản dần khởi sắc, mở ra cơ hội tăng tốc trong những tháng cuối năm.
Theo dữ liệu từ VietstockFinance, tổng doanh thu quý 3/2025 của 17 doanh nghiệp xi măng trên sàn chứng khoán đã công bố BCTC đạt gần 5,400 tỷ đồng, tăng 6% so với cùng kỳ. Biên lãi gộp ở mức 9%.
Lợi nhuận ròng toàn ngành tiếp tục phục hồi, đạt hơn 70 tỷ đồng trong khi cùng kỳ lỗ 64 tỷ đồng. Có 5 doanh nghiệp lỗ chuyển lãi, 3 đơn vị lãi tăng, 4 sụt giảm và 5 tiếp tục thua lỗ.
Doanh thu và lợi nhuận DN xi măng từ quý 1/2022 – quý 3/2025 (Đvt: Tỷ đồng)
Ông lớn dẫn dắt đà phục hồi
Doanh nghiệp đầu ngành - Xi Măng Vicem Hà Tiên (HOSE: HT1) khép lại quý 3 với lãi ròng gần 86 tỷ đồng, gấp 3.8 lần cùng kỳ, nhờ sản lượng tiêu thụ tăng 18%, cùng với việc kiểm soát chi phí sản xuất và giá nguyên liệu đầu vào. Sau 9 tháng, lãi sau thuế đạt gần 190 tỷ đồng, gấp 4.3 lần, vượt 3% chỉ tiêu lợi nhuận cả năm.
Ngoài HT1, VICEM Thương mại Xi măng cũng bứt phá khi lãi hơn 3.5 tỷ đồng, gấp 45.5 lần cùng kỳ. TMX cho biết, đã thu hồi được hơn 4.7 tỷ đồng nợ khó đòi từ Công ty TNHH Vượng Anh, qua đó hoàn nhập dự phòng nợ phải thu. Sau 9 tháng, TMX lãi ròng hơn 4 tỷ đồng, tăng 3.5 lần và vượt xa chỉ tiêu năm.
KQKD doanh nghiệp xi măng quý 3/2025 (Đvt: Tỷ đồng)
Lợi nhuận trở lại sau chuỗi quý thua lỗ
Nhờ hơn 18 tỷ đồng lợi nhuận khác từ xử lý chất thải, Xi măng VICEM Bút Sơn thoát lỗ trong quý 3 với khoản lãi hơn 10 tỷ đồng, đánh dấu quý thứ 2 liên tiếp có lãi sau chuỗi 10 quý thua lỗ.
Tính chung 9 tháng, BTS vẫn lỗ ròng hơn 6 tỷ đồng, cải thiện đáng kể so với mức lỗ gần 122 tỷ đồng ở cùng kỳ năm trước. Tới hết quý 3, BTS còn lỗ lũy kế gần 300 tỷ đồng.
Còn Xi măng VICEM Hoàng Mai lãi hơn 8 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ hơn 11 tỷ đồng. Đây là mức lãi cao nhất trong 13 quý, nhờ cải thiện hiệu suất sản xuất clinker, sử dụng nguyên liệu thay thế và thu thêm lợi nhuận từ xử lý chất thải. Công ty cũng vượt 7% mục tiêu lợi nhuận của năm chỉ sau 9 tháng.
Loay hoay trong vòng xoáy thua lỗ
Dù bức tranh tổng thể toàn ngành đang dần khởi sắc với kết quả có bước cải thiện rõ rệt, đâu đó vẫn còn nhiều doanh nghiệp đang loay hoay trong vòng xoáy thua lỗ kéo dài.
Lỗ nặng nhất gọi tên CTCP Tấm lợp Vật liệu Xây dựng Đồng Nai khi lỗ gần 21 tỷ đồng. Đây cũng là quý thua lỗ thứ 14 liên tiếp. Nguyên nhân chủ yếu do lãi vay cao, kèm khoản phát sinh lãi vay quá hạn.
Sau 9 tháng, DCT lỗ hơn 51 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ 65 tỷ đồng, đưa tổng lỗ lũy kế tính đến ngày 30/9 lên tới gần 920 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm gần 548 tỷ đồng.
Tương tự, Xi măng VICEM Hải Vân kết thúc quý 3 với khoản lỗ gần 9 tỷ đồng, nối dài chuỗi quý thua lỗ lên con số 10, nâng lỗ lũy kế cuối tháng 9 lên hơn 128 tỷ đồng.
HVX lý giải kết quả này do nhu cầu xi măng vẫn thấp, nhiều công trình dân dụng mới chậm khởi công, trong khi cạnh tranh giá tại khu vực miền Trung ngày càng khốc liệt do tồn kho lớn và dư thừa năng lực sản xuất.
Thậm chí, Xi măng Phú Thọ vừa trải qua quý thua lỗ thứ 18 liên tiếp, với khoản lỗ hơn 7 tỷ đồng. Tính đến cuối quý 3, doanh nghiệp lỗ lũy kế hơn 478 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm gần 349 tỷ đồng. PTE cho rằng, 9 tháng qua là giai đoạn vô cùng khó khăn với ngành khi nhu cầu tiêu thụ giảm mạnh, trong khi giá nguyên vật liệu và chi phí sản xuất vẫn neo cao.
KQKD doanh nghiệp xi măng 9T/2025 (Đvt: Tỷ đồng)
Đến cuối tháng 9, nhóm doanh nghiệp niêm yết ngành xi măng có tổng giá trị tồn kho hơn 2,400 tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm. Trong đó, tồn kho của ông lớn HT1 chiếm 28%, với hơn 670 tỷ đồng, giảm 4% so với đầu năm.

Triển vọng khởi sắc cuối năm
Theo nhiều doanh nghiệp, thị trường xi măng vẫn đang chịu áp lực cạnh tranh khi nhiều thương hiệu tung sản phẩm mới giá rẻ, chiết khấu cao để giữ thị phần.
Tại Công điện 179/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành cuối tháng 9, về việc đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phát triển thị trường trong nước năm 2025, đã mang lại tín hiệu tích cực, khi Chính phủ yêu cầu đẩy nhanh tiến độ và giải ngân vốn đầu tư công, đặc biệt tại các dự án trọng điểm như sân bay Long Thành, các đường cao tốc, vành đai. Qua đó, tạo thêm lực cầu lớn cho thị trường vật liệu xây dựng trong những tháng cuối năm.
Song song đó, thị trường bất động sản đang dần phục hồi, nhờ chính sách tín dụng linh hoạt hơn và quá trình tháo gỡ pháp lý được đẩy mạnh. Những yếu tố này được kỳ vọng giúp ngành xi măng bước vào giai đoạn phục hồi và tăng tốc.
Thanh Tú
FILI - 10:49:07 10/11/2025


Sau 9 tháng đầu năm 2025, hầu hết các nhà băng đều báo lãi tăng mạnh, thậm chí vượt xa kế hoạch, bất chấp áp lực biên lãi ròng co hẹp khi mặt bằng lãi suất vẫn ở mức thấp.
Lợi nhuận ngân hàng quý 3 tăng hơn 25%
Kết quả kinh doanh quý 3/2025 cho thấy, lợi nhuận của các ngân hàng tiếp tục tăng trưởng tích cực. Theo số liệu thống kê của VietstockFinance, 26 ngân hàng ghi nhận thu nhập lãi thuần hơn 138 ngàn tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ; trong khi nguồn thu ngoài lãi tăng tới 30%, đạt hơn 37 ngàn tỷ đồng.




Nhờ kiểm soát tốt chi phí hoạt động (tăng 9%), lợi nhuận thuần từ kinh doanh đạt gần 120 ngàn tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Sau khi tăng 9% trích lập dự phòng rủi ro tín dụng so cùng kỳ, lên hơn 34 ngàn tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế của 26 ngân hàng đạt hơn 85 ngàn tỷ đồng, tăng trên 25%.


Một số ngân hàng ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận vượt trội so với cùng kỳ như BVB (gấp 11.8 lần), OCB (gấp 3.5 lần), KLB (gấp 2.9 lần) và PGB (gấp 2.8 lần); trong khi ABB và NVB lần lượt đạt lợi nhuận trước thuế 646 và 191 tỷ đồng, đảo chiều ấn tượng so với con số lợi nhuận âm của cùng kỳ.
Trái lại, 5 ngân hàng có lợi nhuận đi xuống, chủ yếu do thu nhập tín dụng sụt giảm; trong đó, BAB có mức giảm mạnh nhất, lên đến 46%.
Lãi 9 tháng toàn ngành tăng trưởng 2 con số
Khép lại 9 tháng đầu năm, lợi nhuận trước thuế của 27 ngân hàng đạt hơn 259 ngàn tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ.




Thu nhập lãi thuần vẫn là trụ cột chính với hơn 411 ngàn tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ; cùng với thu nhập ngoài lãi tăng 26%, đóng góp hơn 117 ngàn tỷ đồng. Chi phí hoạt động và chi phí dự phòng rủi ro đều tăng ở mức hợp lý, lần lượt tăng 9% và 4%.


Trong nhóm ngân hàng có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận nổi bật, ABB dẫn đầu khi lợi nhuận cao gấp 9.7 lần cùng kỳ, tiếp đến là BVB (gấp 2.4 lần) và KLB (gấp hơn 2 lần). NVB cũng thoát lỗ so với cùng kỳ, ghi nhận lãi hơn 650 tỷ đồng.
Cuộc đua ngôi vương lợi nhuận “bão hòa”
Cuộc đua lợi nhuận trong nhóm dẫn đầu đang dần “bão hòa” khi bộ ba ngân hàng quốc doanh vẫn chiếm vị trí cao nhất. Vietcombank tiếp tục dẫn đầu với lợi nhuận hơn 33 ngàn tỷ đồng, VietinBank giữ vị trí thứ 2 với 29.5 ngàn tỷ đồng, còn BIDV đứng thứ 3 với khoảng cách gần 6 ngàn tỷ đồng so với VietinBank.
Nguồn: VietstockFinance
Đáng chú ý, Techcombank, nhờ mức tăng 14% trong quý 3, đã vượt MBB để vươn lên vị trí thứ 4 toàn ngành.
Các vị trí còn lại trong top 10 ngân hàng lãi cao nhất vẫn thuộc về ACB (+5%), HDB (+17%), SHB (+35%) và STB (+36%).
Xuất hiện nhà băng “về đích” lợi nhuận sớm

Bên cạnh kết quả tích cực, một số ngân hàng đã sớm vượt kế hoạch lợi nhuận cả năm. ABB - nhà băng có mức tăng trưởng mạnh nhất - hiện đã vượt 29% kế hoạch năm chỉ sau 9 tháng. KLB và SSB cũng vượt kế hoạch lần lượt 11% và 4%, trong khi phần lớn các ngân hàng khác đã hoàn thành trên 60% mục tiêu.
Khang Di
FILI - 12:00:00 07/11/2025

Trong những tháng gần đây, cùng với xu hướng “sideway” của thị trường chứng khoán hay sự đi xuống của một số nhóm ngành thường xuyên được “chọn mặt gửi vàng” như ngân hàng và chứng khoán, tỷ suất lợi nhuận của các quỹ đầu tư cổ phiếu suy giảm rõ rệt so với các giai đoạn trước đó.
Hiệu suất quỹ cổ phiếu bị “bóp nghẹt”
Dựa trên mức điểm 1,678.5 tính đến ngày 22/10, VN-Index đã tăng 32.5% so với đầu năm, mức vô cùng ấn tượng, đưa Việt Nam vào nhóm các thị trường tăng mạnh nhất thế giới. Tuy nhiên, gần đây chỉ số liên tục gặp khó trong việc tiếp tục bứt phá bền vững. Phản ánh bức tranh đó, hiệu suất đầu tư của các quỹ cổ phiếu đã suy yếu rõ rệt.
Xét trên nhiều khung thời gian kể từ đầu năm, giai đoạn 6 tháng gần nhất (từ cuối tháng 4 đến nay) cho hiệu suất NAV/ccq cao nhất của các quỹ cổ phiếu, nhờ không phản ánh cú sập mạnh do thuế quan diễn ra vào đầu tháng 4, tiêu biểu là Quỹ Đầu tư Chứng khoán Năng động DC (DCDS), Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Năng động Bảo Việt (BVFED) và Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Tăng trưởng Mirae Asset Việt Nam (MAGEF) đều tăng trên 40%.
Còn trong 3 tháng gần nhất, hiệu suất thu hẹp đáng kể do thị trường sideway phần lớn thời lượng, bắt đầu từ nửa sau tháng 8.
Đáng chú ý nhất phải kể đến khung thời gian 1 tháng qua - với việc chứng kiến chuỗi tăng tiến sát 1,800 điểm nhờ động lực từ những “siêu trụ” nhưng sau đó giảm đột ngột trên diện rộng, đặc biệt ngày 20/10 giảm lịch sử gần 95 điểm - hiệu suất các quỹ cổ phiếu lập tức bị tác động đáng kể.
Theo đó, chỉ 4 quỹ đạt hiệu suất dương, gồm Quỹ Đầu tư Cổ phiếu United ESG Việt Nam (UVEEF), DCDS, MAGEF và BVFED, nhưng đều dưới mức 1%. Phần còn lại, toàn ngành quỹ cổ phiếu ngập trong “sắc đỏ”.
Ở nhóm quỹ cân bằng - phân bổ tài sản đa dạng hơn vào kênh cổ phiếu, trái phiếu, tiền gửi - còn không ghi nhận trường hợp nào tăng trưởng dương.
Bảng xếp hạng hiệu suất xét theo loại hình quỹ tính đến ngày 22/10/2025
Các kết quả này phản ánh thực tế giao dịch không hề dễ dàng trên kênh cổ phiếu trong giai đoạn này, đặc biệt khi nhóm tài chính có dấu hiệu suy yếu sau chuỗi ngày đẹp như mơ.
Dữ liệu của VietstockFinance cho giai đoạn 1 tháng qua cho thấy tỷ suất vô cùng phân hóa giữa các ngành. Nhóm tăng trưởng dương bao gồm tiêu dùng không thiết yếu (+0.62%), chăm sóc sức khỏe (+1.48%), công nghiệp (+1.7%) và đặc biệt ngành có tỷ trọng vốn hóa rất lớn là bất động sản (+15.37%) đi cùng đà tăng vượt trội của nhóm Vingroup.
Trong khi đó, hàng loạt ngành tăng trưởng âm, bao gồm: tiêu dùng thiết yếu (-0.06%), năng lượng (-1.12%), tài chính (-2.52%), tiện ích (-3.75%), nguyên vật liệu (-4.2%), công nghệ thông tin (-5.68%) và dịch vụ truyền thông (-7.24%). Trong đó, nhóm tài chính với nhiều cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm là điểm đến được nhiều quỹ “chọn mặt gửi vàng”.
Nhóm tài chính suy yếu trong khi bất động sản thể hiện bộ mặt tích cực
BVFED là một trong những ví dụ điển hình cho sự biến động của thị trường cổ phiếu, với việc dẫn đầu trên bảng xếp hạng tỷ suất tính từ đầu năm, đạt 37%, nhưng tăng không đáng kể trong 1 tháng gần nhất. Danh mục của BVFED phần nào lý giải kết quả này khi phân bổ gần 50% vào nhóm ngân hàng, khoảng 5% cho chứng khoán, trong khi chỉ dành trên 10% cho bất động sản.
Trường hợp tương tự là DCDS, tăng 32% kể từ đầu năm, nhưng chỉ nhích nhẹ trong 1 tháng gần nhất. Trong danh mục, DCDS phân bổ khoảng 28% vào cổ phiếu ngân hàng, khoảng 9% vào chứng khoán, trong khi dành hơn 24% cho bất động sản.
Trong một diễn biến đáng chú ý gần đây, Công ty TNHH Quản lý Quỹ Đầu tư Chứng khoán Vietcombank (VCBF) đã tổ chức buổi báo cáo hoạt động các quỹ mở quý 3/2025, cho thấy mức tăng trưởng chậm hơn chỉ số tham chiếu.
Theo ông Phạm Lê Duy Nhân - Giám đốc Quản lý Danh mục Đầu tư VCBF, nguyên nhân chủ yếu do các quỹ đang quản lý gồm Quỹ Cổ phiếu Hàng đầu VCBF (VCBF-BCF), Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Tăng trưởng VCBF (VCBF-MGF), Quỹ Đầu tư Cân bằng Chiến lược VCBF (VCBF-TBF) hay Quỹ Đầu tư Chủ động VCBF (VCBF-AIF) đều nắm tỷ trọng thấp hoặc thậm chí không nắm giữ bộ đôi VIC và VHM, cũng như không nắm giữ VIX, SHB, LPB, GEX - các cổ phiếu tăng rất tốt vừa qua. Ngược lại, các cổ phiếu được lựa chọn như PNJ, BWE, ACV, FPT, CTR, TLG, LHG… có hiệu suất thấp hơn thị trường chung.
“Thị trường trong 9 tháng đầu năm tăng mạnh chủ yếu nhờ một số cổ phiếu dẫn dắt, nên hiệu suất VCBF kém hơn chỉ số tham chiếu là điều dễ hiểu” - ông Nhân chia sẻ.
Trái ngược với quỹ cổ phiếu và quỹ cân bằng, các quỹ trái phiếu vẫn duy trì tỷ suất khá ổn định. Tính trong 1 tháng qua, Quỹ Đầu tư Trái phiếu Bản Việt (VCAMFI) dẫn đầu với mức tăng 1.4%, tiếp đến là Quỹ Đầu tư Trái phiếu PVCOM (PVBF) tăng xấp xỉ 1%.
Sau giai đoạn trầm lắng nhằm tái cấu trúc mạnh mẽ hậu cú sốc lớn vào năm 2022, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã chuyển biến tích cực cả về quy mô lẫn chất lượng. Kênh trái phiếu thực chất vẫn sở hữu những lợi thế của riêng mình, với mức lãi suất hấp dẫn hơn kênh tiền gửi, đồng thời không biến động mạnh như kênh cổ phiếu thời gian qua.
Kênh cổ phiếu còn hấp dẫn?
Thị trường chứng khoán dù vẫn còn rất nhiều tiềm năng, nhưng sau giai đoạn tăng điểm rất mạnh, một nhịp chỉnh xuất hiện là điều cần thiết. VN-Index bắt đầu đi vào “sideway” từ giữa tháng 8 là minh chứng, từ đó ảnh hưởng đến kết quả đầu tư của các quỹ, thậm chí là nhà đầu tư cá nhân. Dấu hỏi lớn được đặt ra cho dư địa của thị trường trong thời gian tới.
Nhịp điều chỉnh đã sớm được dự báo bằng nhiều cách khác nhau, phổ biến là dựa theo P/E thị trường không còn rẻ so với bình quân của quá khứ. Việc khối ngoại liên tục bán ròng gần đây cũng phần nào gây áp lực.
Tại sự kiện "Đầu tư 360 - Tối ưu tài sản, đón đầu cơ hội" do Chứng khoán KAFI tổ chức ngày 18/10, ông Trịnh Duy Viết - Giám đốc Chiến lược KAFI - cho rằng, dù P/E ở mức 15 - 16 lần là tương đương trung bình giai đoạn 2012 - 2025, nhưng khi nhà đầu tư tin tưởng vào tăng trưởng kinh tế ổn định và câu chuyện nâng hạng, họ sẵn sàng trả mức định giá cao hơn, có thể 1 - 2 lần độ lệch chuẩn, mở ra cơ hội để thị trường chinh phục những đỉnh cao mới.
Bên cạnh đó, lợi nhuận doanh nghiệp năm 2025 - 2026 được dự báo tăng 20 - 25%, duy trì tốc độ tăng trưởng cao và là động lực chính giữ vững mặt bằng định giá.
Về câu chuyện khối ngoại, theo chuyên gia KAFI, điều này hoàn toàn hợp lý. Trước nhiều biến động những năm qua, nguyên tắc đầu tiên là rút vốn về các tài sản hoặc thị trường an toàn hơn. Chỉ khi bức tranh toàn cầu trở nên sáng hơn mới sẵn sàng quay lại.
Về phân bổ tài sản, trước đây Việt Nam vẫn thuộc nhóm Cận biên, nên không nhận được nhiều sự ưu tiên từ các quỹ đầu tư. Tuy nhiên, câu chuyện sắp tới có thể thay đổi khi Việt Nam đã được nâng hạng lên cấp độ cao hơn - Mới nổi Thứ cấp.
Hơn nữa, các yếu tố rủi ro được nhắc đến nhiều ở thời điểm đầu năm như tỷ giá, lạm phát… đến nay đã thuyên giảm. Trong khi đó, các yếu tố nội tại như đầu tư và tiêu dùng vẫn đang là động lực quan trọng, hỗ trợ tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp - điều mà nhà đầu tư nên quan tâm nhất.
Ngoài ra, thị trường chứng khoán gần đây cũng liên tục “nóng” với câu chuyện thanh tra trái phiếu, được cho là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến phiên giảm lịch sử gần 95 điểm (ngày 20/10).
Huy Khải
FILI - 10:27:58 28/10/2025


Các công ty chứng khoán (CTCK) khuyến nghị mua PVS nhờ triển vọng từ tổng giá trị hợp đồng đã ký cho mảng M&C đạt khoảng 3.7 tỷ USD cho giai đoạn 2025-2030; KBC khả quan nhờ mở rộng quỹ đất KCN mang đến động lực mới; mua TNG nhờ hiệu suất ổn định trong quý 3.
Mua PVS với giá mục tiêu 41,000 đồng/cp
CTCK ACB (ACBS) cho biết Tổng CTCP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (HNX: PVS) ghi nhận kết quả kinh doanh quý 3/2025 với doanh thu đạt 9,629 tỷ đồng (tăng 115%) và lãi sau thuế 334 tỷ đồng (tăng hơn 73%).
Mức tăng trên là nhờ doanh thu mảng xây lắp M&C (thường chiếm trung bình 55-65% tổng doanh thu) tăng 239% so với cùng kỳ nhờ việc ghi nhận nhiều hơn từ các dự án như Lô B Ô Môn, Lạc đà vàng và các dự án điện gió ngoài khơi (Baltica, Fenmiao); doanh thu mảng kho nổi và mảng dịch vụ căn cứ cảng cũng ghi nhận mức tăng trưởng tích cực, lần lượt 23% và 58%.
Mặt khác, doanh thu tài chính tăng 179% so với cùng kỳ (tiếp nối đà tăng từ đầu năm) lên 234 tỷ đồng nhờ lãi tiền gửi và lãi chênh lệch tỷ giá tăng. Việc ghi nhận doanh thu từ các hợp đồng điện gió ngoài khơi đã đóng góp tích cực cho mức tăng này. Trong khi đó, chi phí tài chính giảm 82%, xuống còn 87 tỷ đồng do lỗ chênh lệch tỷ giá giảm hơn 80%.
Các yếu tố trên đà bù đắp tác động tiêu cực từ biên lợi nhuận gộp giảm xuống còn 3.4% từ mức 6.9% cùng kỳ năm trước. Mức giảm này chủ yếu đến từ biên lợi nhuận gộp mảng M&C sụt giảm từ mức 2.5% xuống 0.36% do việc gia tăng trích lập bảo hành công trình xây dựng.
Lũy kế 9 tháng đầu năm 2025, doanh thu thuần đạt 23,002 tỷ đồng (tăng 63% so với cùng kỳ) và lãi sau thuế 949 tỷ đồng (tăng hơn 34%). Mức tăng này được đóng góp chính từ mảng Cơ khí xây lắp M&C với doanh thu tăng 125% khi mà biên lãi gộp giảm còn 4.4% từ mức 5.9% hồi cùng kỳ.
Về triển vọng, hoạt động kinh doanh cốt lõi của PVS được dự phóng sẽ tăng trưởng tốt với tổng giá trị hợp đồng đã ký cho mảng M&C đạt khoảng 3.7 tỷ USD cho giai đoạn 2025-2030, chiếm 69% tổng dự phóng backlog cho giai đoạn này.
ACBS dự phóng kết quả kinh doanh 2025 của PVS với doanh thu đạt 30,017 tỷ đồng (tăng 26% so với năm trước) và lãi sau thuế 1,380 tỷ đồng (tăng hơn 10%). Tăng trưởng lãi sau thuế có thể chậm lại trong quý 4 do trong năm 2024, PVS ghi nhận khoản lợi nhuận khác trị giá 603 tỷ đồng. Trong năm 2026, mức tăng trưởng tương ứng dự kiến đạt 24% và 12%.
Dự phóng kết quả kinh doanh 2025-2026 của PVSNguồn: ACBS
Bằng phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF), ACBS khuyến nghị mua PVS với giá mục tiêu 41,000 đồng/cp.
Xem thêm tại đây
KBC khả quan với giá mục tiêu 39,700 đồng/cp
CTCK MB (MBS) kỳ vọng Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc - CTCP (HOSE: KBC) bàn giao 30 ha đất tại KCN Nam Sơn – Hạp Lĩnh cho Goertek trong quý 3/2025, doanh thu cho thuê đất KCN dự phóng tăng 134% so với cùng kỳ, biên LNG đạt 50%. Doanh thu bất động sản tiếp tục đến từ dự án nhà ở xã hội Nếnh và Tràng Duệ, dự phóng tăng 27%, nhưng biên lãi gộp thấp khoảng 10-12%. Doanh thu và chi phí tài chính tăng mạnh 53% và 43% trong quý 3/2025 do tiền và nợ vay tăng mạnh. MBS dự phóng lãi ròng quý 3/2025 tăng 95% trên mức nền thấp cùng kỳ năm trước.
Mặt khác, KBC liên tiếp nhận được quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư dự án KCN và khu đô thị (KĐT) mới gồm KCN Tràng Duệ 3, KCN Kim Thành 2 GĐ1, KCN Quế Võ 2 mở rộng, KCN Phú Bình, KCN Sông Hậu 2, KCN Bình Giang, KĐT Tràng Cát, khu phức hợp Trump International. Quỹ đất lớn tạo động lực tăng trưởng cho KBC trong dài hạn.
Đối với mảng KCN, MBS dự phóng doanh thu năm 2025-2027 tăng trưởng lần lượt +268%/+26%/-31%.
Đối với mảng bất động sản, năm 2025-2026, doanh thu chủ yếu từ các dự án nhà ở xã hội. Sang năm 2027, MBS kỳ vọng KĐT Tràng Cát sẽ đem lại dòng tiền.
Tổng hợp lại, MBS điều chỉnh dự phóng lãi ròng năm 2025-2027 của KBC sẽ tăng 317%/9%/26% so với năm trước.
Dự phóng kết quả kinh doanh của KBC giai đoạn 2025-2027
Ngoài ra, MBS cho biết KBC đã phát hành riêng lẻ hơn 174 triệu cp, thu về hơn 4,000 tỷ đồng. Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm giúp cơ cấu tài chính lành mạnh hơn và giảm áp lực trả lãi vay.
Theo đó, MBS khuyến nghị KBC khả quan với giá mục tiêu 39,700 đồng/cp dựa trên các luận điểm: (1) Mức thuế quan Mỹ áp cho hàng hoá từ Việt Nam vẫn cạnh tranh với các quốc gia khác trong khu vực, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư (2) Mở rộng quỹ đất KCN và KĐT tạo động lực phát triển dài hạn (3) Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm giúp cơ cấu tài chính lành mạnh hơn.
Xem thêm tại đây
Mua TNG với giá mục tiêu 24,500 đồng/cp
CTCK Mirae Asset (MAS) cho biết xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam duy trì mức tăng trưởng vững chắc 8.6% trong 9 tháng đầu năm 2025 và 9.1% trong tháng 9, đạt 29.7 tỷ USD và 3.3 tỷ USD. Sản xuất hàng may mặc trong nước tiếp tục tăng trưởng, với IIP tăng trưởng 13.5% trong 9 tháng đầu năm. Kết quả khả quan này diễn ra trong bối cảnh các đối thủ lớn như Trung Quốc và Ấn Độ đang phải vật lộn với mức thuế quan bổ sung của Hoa Kỳ vì nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, các đối thủ khác như Bangladesh, Campuchia, Pakistan tiếp tục phải đối mặt với tình trạng bạo lực và bất ổn chính trị, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến ngành dệt may và xuất khẩu hàng may mặc của các nước. Về phía nhu cầu, chỉ số niềm tin người tiêu dùng tại Hoa Kỳ đã giảm xuống còn 55 vào tháng 10 (từ 61.7 vào tháng 7), do lạm phát và những lo ngại về thị trường lao động suy yếu.
Về phía CTCP Đầu tư và Thương mại TNG , trong quý 3/2025, doanh thu của Công ty tăng lên 2,633 tỷ đồng (tăng 11.7% so với cùng kỳ). Tuy nhiên, biên lợi nhuận gộp thu hẹp xuống còn 13.7% (cùng kỳ là 14.4%) và lợi nhuận gộp gần như không đổi, đạt 359.7 tỷ đồng. Trong quý, cả thu nhập và chi phí từ hoạt động tài chính đều giảm, trong khi chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp tăng lên 172 tỷ đồng (tăng 10.3%). Lợi nhuận hoạt động và lãi sau thuế của TNG trong quý 3 lần lượt đạt 147.8 tỷ đồng (tăng 6.1%) và 117 tỷ đồng (tăng 5.3%). Trong 9 tháng đầu năm 2025, doanh thu và lãi sau thuế của TNG lần lượt đạt 6,671 tỷ đồng (tăng 13.4%) và 280.4 tỷ đồng (tăng 16.4%).
Với kết quả kinh doanh quý 3 đang đi đúng hướng, bên cạnh các điều kiện kinh tế vĩ mô và ngành thuận lợi, MAS duy trì dự báo doanh thu và lãi sau thuế năm 2025 lần lượt đạt 8,000 đồng (tăng 4.5%) và 345.7 tỷ đồng (tăng 9.8%).
Năm 2026, MAS cho rằng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sẽ vượt trội so với các đối thủ dệt may khác. CTCK này kỳ vọng quy mô lực lượng lao động của TNG sẽ đạt 21,000 người và năng suất lao động tăng lên 405 triệu đồng/người.
MAS dự báo doanh thu năm 2026 của TNG đạt 8,505 tỷ đồng (tăng 6.3%), còn chi phí SG&A năm 2026 sẽ tăng nhẹ do lạm phát. Theo đó, CTCK này dự báo lợi nhuận hoạt động và lãi sau thuế năm 2026 lần lượt đạt 470 tỷ đồng (tăng 12%) và 386 tỷ đồng (tăng 12%).
Dự phóng kết quả kinh doanh 2025-2027 của TNG
Với dự phóng trên, MAS khuyến nghị mua TNG với giá mục tiêu 24,500 đồng/cp.
Thượng Ngọc
FILI - 10:52:41 27/10/2025
Trong điều kiện thị trường quý 3 đầy thuận lợi, Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng ACB (ACBS) lãi ròng hơn 402 tỷ đồng, tăng 86% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này thúc đẩy lãi ròng 9 tháng lên hơn 736 tỷ đồng, tăng 35%.
Trong quý 3, đóng góp chính vào lợi nhuận cho ACBS đến từ hoạt động tự doanh, với lãi gộp hơn 255 tỷ đồng, tăng 55%. Đồng thời, môi giới lãi hơn 41 tỷ đồng, gấp 3.7 lần; lãi từ đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn (HTM) gần 216 tỷ đồng, gấp 2.7 lần.
Doanh thu cho vay hơn 319 tỷ đồng, tăng 74%, tuy nhiên chịu áp lực phải trích gần 275 tỷ đồng chi phí dự phòng các khoản cho vay và phải thu, chi phí đi vay của các khoản cho vay, gấp 2.2 lần cùng kỳ.
Lũy kế 9 tháng, ACBS lãi ròng hơn 736 tỷ đồng, tăng 35%. Tự doanh và đầu tư HTM vẫn giữ vai trò động lực tăng trưởng chính, trong khi môi giới suy giảm do chi phí tăng cao và cho vay chịu áp lực trích dự phòng.
Với tự doanh, Công ty lãi hơn 301 tỷ đồng, tăng 15%. Trong đó, đóng góp chính từ lãi bán tài sản tài chính ghi nhận thông qua lãi/lỗ (FVTPL) tăng 23%, đạt gần 192 tỷ đồng, chủ yếu đóng góp bởi lãi bán cổ phiếu, trong khi ghi âm nghiệp vụ tự doanh hợp đồng tương lai và hoạt động mua lại chứng quyền cho Công ty phát hành.
Công ty cũng tăng thêm 98 tỷ đồng phần lãi chênh lệch đánh giá lại tài sản tài chính FVTPL, bao gồm việc giảm phần chênh lệch giảm cổ phiếu và tăng chênh lệch tăng tài sản cơ sở cho hoạt động phòng ngừa rủi ro chứng quyền. Tuy nhiên, mức này suy giảm so với con số hơn 118 tỷ đồng của 9 tháng đầu năm 2024.
Năm 2025, ACBS đặt mục tiêu lãi trước thuế 1.35 ngàn tỷ đồng, tăng trên 60% so với thực hiện năm 2024. Như vậy, với hơn 910 tỷ đồng lãi trước thuế trong 9 tháng đầu năm, thành viên của hệ sinh thái ACB đã thực hiện 67% kế hoạch năm.
Kết quả kinh doanh quý 3 và lũy kế 9 tháng năm 2025 của ACBSĐvt: Tỷ đồngNguồn: VietstockFinance
Tại thời điểm 30/09/2025, quy mô tài sản của ACBS thiết lập cột mốc mới hơn 39.4 ngàn tỷ đồng, gấp rưỡi đầu năm. Thực tế, Công ty cũng đã vượt kế hoạch nâng tổng tài sản năm nay lên 32.85 ngàn tỷ đồng trong quý 2 trước đó.
Quy mô tài sản tăng lên chủ yếu đến từ dư nợ cho vay, tăng từ gần 8.7 ngàn tỷ đồng lên gần 16.3 ngàn tỷ đồng, phần lớn là cho vay giao dịch ký quỹ. Giá trị các khoản đầu tư HTM cũng tăng mạnh từ gần 11.5 ngàn tỷ đồng lên gần 15.4 ngàn tỷ đồng, trong đó phần tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn lên đến 14.3 ngàn tỷ đồng.
Giá trị hợp lý các tài sản tài chính FVTPL tăng từ hơn 3.1 ngàn tỷ đồng lên hơn 6 ngàn tỷ đồng, phần lớn đi vào kênh trái phiếu, cổ phiếu và tài sản cơ sở cho phòng ngừa rủi ro chứng quyền.
Hoạt động kinh doanh của ACBS được hỗ trợ bởi nguồn vốn dồi dào hơn. Trong đó, vốn vay đã tăng thêm 8.1 ngàn tỷ đồng, lên gần 24.5 ngàn tỷ đồng, toàn bộ ở kỳ hạn ngắn. Nhiều đối tác đã cho ACBS vay vốn, đặc biệt là BIDV với dư nợ lên đến hơn 4.9 ngàn tỷ đồng. Ngoài ra, Công ty cũng ghi nhận giá trị 200 tỷ đồng trái phiếu phát hành ngắn hạn.
Tổng tài sản ACBS lập cột mốc mới
Huy Khải
FILI - 11:58:50 22/10/2025

Cập nhật hiệu suất các quỹ mở cổ phiếu, cân bằng của VCBF trong quý 3 và 9 tháng năm 2025 cho thấy mức tăng trưởng chậm hơn chỉ số tham chiếu, do danh mục đầu tư thiếu vắng nhiều cổ phiếu dẫn dắt thị trường.
Chiều 16/10, Công ty TNHH Quản Lý Quỹ Đầu Tư Chứng Khoán Vietcombank (VCBF) đã tổ chức sự kiện chủ đề báo cáo hoạt động các quỹ mở quý 3/2025 và triển vọng thị trường chứng khoán. Tại đây, các chuyên gia VCBF đã đánh giá về hiệu suất đầu tư của quỹ và cập nhật một số kế hoạch sẽ triển khai trong thời gian tới.
Hiệu suất thấp hơn thị trường do danh mục thiếu vắng nhiều “ngôi sao”
Quý 3/2025, VN-Index tăng 20.8%, nâng mức sinh lời từ đầu năm lên 31.2%, trong đó nhóm vốn hóa lớn thể hiện sự vượt trội. Thanh khoản cũng là điểm nhấn với giá trị bình quân 1.7 tỷ USD/ngày, cao hơn 79% so với quý liền trước và tăng 125% so với cùng kỳ năm trước. Hành động bán ròng của khối ngoại cũng là một trong những điểm nhấn.
Trong bối cảnh đó, kết quả quý 3 và lũy kế 9 tháng đầu năm của các quỹ mở do VCBF quản lý ghi nhận sự tăng trưởng, tuy nhiên hiệu suất lại thấp hơn chỉ số tham chiếu.
Cụ thể, Quỹ Cổ phiếu Hàng đầu VCBF (VCBF-BCF) quý 3 đạt 14.5% và 9 tháng xấp xỉ 20%, thấp hơn tham chiếu VN100-Index; Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Tăng trưởng VCBF (VCBF-MGF) quý 3 đạt 7.6% và 9 tháng đạt 8.9%, thấp hơn tham chiếu VN70-Index; Quỹ Đầu tư Cân bằng Chiến lược VCBF (VCBF-TBF), hiệu suất quý 3 đạt 9.6% và 9 tháng đạt 13.4%, thấp hơn đôi chút so với chỉ số tham chiếu; hay Quỹ Đầu tư Chủ động VCBF (VCBF-AIF) ra mắt đầu tháng 2/2025, hiệu suất quý 3 đạt 11.1% và từ khi thành lập đến nay đạt 12.1%, thấp hơn tham chiếu VN-Index.
Hiệu suất quỹ mở cổ phiếu, cân bằng của VCBF thấp hơn chỉ số tham chiếu
Lý giải cho kết quả hiệu suất thấp hơn chỉ số tham chiếu, theo ông Phạm Lê Duy Nhân - Giám đốc Quản lý Danh mục Đầu tư VCBF, nguyên nhân chủ yếu đến từ việc nắm tỷ trọng thấp hoặc thậm chí không nắm giữ bộ đôi VIC và VHM, cũng như không nắm giữ VIX, SHB, LPB, GEX - các cổ phiếu tăng rất tốt vừa qua. Ngược lại, các cổ phiếu được lựa chọn như PNJ, BWE, ACV, FPT, CTR, TLG, LHG… có hiệu suất thấp hơn thị trường chung.
“Thị trường trong 9 tháng đầu năm tăng mạnh chủ yếu nhờ một số cổ phiếu dẫn dắt, nên hiệu suất VCBF kém hơn chỉ số tham chiếu là điều dễ hiểu” - ông Nhân chia sẻ.
Tính đến cuối tháng 9/2025, VCBF-BCF có tổng tài sản 1,064 tỷ đồng. Tỷ lệ tiền mặt tăng từ gần 0% cuối quý 2 lên 6.6% cuối quý 3, do các cổ phiếu vốn hóa lớn - nhóm mục tiêu đầu tư của quỹ - đã tăng mạnh, khiến hoạt động giải ngân mới trở nên thận trọng hơn. Bên cạnh đó, dòng tiền vào quỹ vẫn tích cực góp phần làm tỷ lệ tiền mặt tăng.
Với VCBF-MGF, tổng tài sản đạt 864 tỷ đồng, duy trì tỷ lệ tiền mặt 1.8%. Dòng tiền vào VCBF-MGF kém hơn VCBF-BCF do hiệu suất chưa cao, song phần lớn cổ phiếu vốn hóa vừa trong danh mục vẫn còn dư địa tăng giá lớn, nên quỹ tiếp tục duy trì tỷ trọng cổ phiếu cao để chờ thời điểm phản ánh đúng giá trị.
Với VCBF-TBF, tổng tài sản đạt 543 tỷ đồng, phân bổ 64% vào cổ phiếu, phần còn lại là tài sản thu nhập cố định và tiền mặt.
Còn tại VCBF-AIF, tổng tài sản ở mức 314 tỷ đồng, phân bổ 97.4% vào cổ phiếu. Với định hướng tạo thu nhập cổ tức (Dividend Income), tỷ lệ cổ tức bình quân danh mục đạt 2.7%, cao hơn bình quân VN-Index (1.4%).
Trong mảng trái phiếu, Quỹ Đầu tư Trái phiếu VCBF (VCBF-FIF) có hiệu suất quý 3 đạt 1.7% và bình quân 12 tháng đạt 6.4%. Tính đến cuối tháng 9, VCBF-FIF có tổng tài sản 615 tỷ đồng, tỷ trọng đầu tư trái phiếu tăng từ 54% cuối quý 2 lên 59% cuối quý 3.

Tiếp tục đặt niềm tin vào FPT
Trả lời cho câu hỏi của nhà đầu tư về lý do đặt tỷ trọng danh mục cao vào FPT bất chấp thị giá đang điều chỉnh, theo ông Nguyễn Triệu Vinh - Phó Giám đốc Khối Đầu tư, Giám đốc Đầu tư Cổ phiếu VCBF, nguyên nhân đầu tiên đến từ việc đây là doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam với nền tảng tăng trưởng bền vững. Dù năm nay lợi nhuận dự kiến chỉ tăng 15 - 18% do ảnh hưởng từ thị trường Mỹ và châu Á - Thái Bình Dương, FPT vẫn ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực như hợp đồng phần mềm 100 triệu USD và gói thầu 250 triệu USD lần lượt tại hai thị trường này. Với định giá P/E khoảng 16 - 17 lần, FPT vẫn được đánh giá hấp dẫn và có tiềm năng tăng trưởng dài hạn 18 - 20%/năm.
Đối với câu hỏi khác liên quan đến cổ phiếu mà VCBF cũng đang đặt nhiều kỳ vọng là BWE, ông Vinh cho biết đây là doanh nghiệp có vị thế độc quyền trong lĩnh vực cấp nước tại Bình Dương, tạo dòng tiền ổn định và mở rộng sang nhiều địa phương khác. Nhờ mô hình đầu tư vốn lớn nhưng thu hồi dài hạn, cùng chi phí lãi vay thấp và uy tín cao, BWE được đánh giá là doanh nghiệp có dòng tiền bền vững và tiềm năng tăng trưởng dài hạn 5 - 10 năm tới.
Tăng tần suất giao dịch quỹ cổ phiếu từ cuối 2025
Chủ đề đáng chú ý khác được trao đổi tại sự kiện là kế hoạch tăng tần suất giao dịch quỹ mở, thay vì chỉ giao dịch vào thứ Ba và thứ Năm như hiện tại.
Theo bà Dương Kim Anh - Giám đốc Khối Đầu tư VCBF, từ đầu năm VCBF đã làm việc với các bên liên quan để nâng tần suất. Dự kiến từ tháng 11 - 12/2025, Công ty sẽ giao dịch hằng ngày (5 ngày/tuần) cho các quỹ cổ phiếu.
Tuy nhiên, quỹ trái phiếu VCBF-FIF vẫn duy trì giao dịch hai lần/tuần do quy mô còn nhỏ và lợi nhuận thấp, trong khi tăng tần suất sẽ làm chi phí vận hành (lưu ký, ngân hàng giám sát, quản lý tài khoản...) tăng lên và ảnh hưởng đến lợi nhuận của nhà đầu tư.
Huy Khải
FILI - 16:05:55 17/10/2025
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Pembuat Poster
Program Afiliasi
Berdagang Instrumen Keuangan Seperti Saham, Mata Uang, Komoditas, Kontrak Berjangka, Obligasi, Dana, Atau Mata Uang Kripto Adalah Perilaku Berisiko Tinggi, Termasuk Kehilangan Sebagian Atau Seluruh Jumlah Investasi Anda, Sehingga Perdagangan Tidak Cocok Untuk Semua Investor.
Anda Harus Melakukan Uji Tuntas Anda Sendiri, Menggunakan Penilaian Anda Sendiri, Dan Berkonsultasi Dengan Penasihat Yang Memenuhi Syarat Saat Membuat Keputusan Keuangan Apa Pun. Konten Situs Web Ini Tidak Ditujukan Kepada Anda, Situasi Keuangan Atau Kebutuhan Anda Juga Tidak Diperhitungkan. Informasi Yang Terdapat Di Situs Web Ini Belum Tentu Tersedia Secara Waktu Nyata, Juga Belum Tentu Akurat. Setiap Pesanan Atau Keputusan Keuangan Lainnya Yang Anda Buat Sepenuhnya Menjadi Tanggung Jawab Anda Dan Anda Tidak Boleh Bergantung Pada Informasi Apa Pun Yang Disediakan Melalui Situs Web. Kami Tidak Memberikan Jaminan Apa Pun Untuk Informasi Apa Pun Di Situs Web Dan Tidak Bertanggung Jawab Atas Kerugian Transaksi Apa Pun Yang Mungkin Timbul Dari Penggunaan Informasi Apa Pun Di Situs Web.
Dilarang Menggunakan, Menyimpan, Menggandakan, Menampilkan, Memodifikasi, Menyebarluaskan Atau Mendistribusikan Data Yang Terdapat Dalam Situs Web Ini Tanpa Izin Tertulis Dari Situs Web Ini. Semua Hak Kekayaan Intelektual Dilindungi Oleh Pemasok Dan Bursa Yang Menyediakan Data Yang Terdapat Di Situs Web Ini.
Tidak Masuk
Masuk untuk mengakses lebih banyak fitur

Anggota FastBull
Belum
Pembelian
Masuk
Daftar