Kutipan
Berita
Analisis
Pengguna
24/7
Kalender Ekonomi
Pendidikan
Data
- Nama
- Nilai Terbaru
- Sblm.












Akun Sinyal untuk Anggota
Semua Akun Sinyal
Semua Kontes



Pernyataan Suku Bunga RBA
Konferensi Pers RBA
Jerman Ekspor MoM (SA) (Okt)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Kepercayaan Industri Kecil NFIB (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Meksiko Inflasi 12 Bulan (CPI) (Nov)S:--
P: --
S: --
Meksiko IHK Inti YoY (Nov)S:--
P: --
S: --
Meksiko Indeks Harga Produsen (IHP) YoY (Nov)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Nilai Penjualan Bisnis Retail Mingguan Redbook YoYS:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Tingkat Lowongan Pekerjaan - JOLTS (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Uang Beredar M1 YoY (Nov)--
P: --
S: --
China, Daratan Uang Beredar M0 YoY (Nov)--
P: --
S: --
China, Daratan Uang Beredar M2 YoY (Nov)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perkiraan Produksi Minyak Mentah Jangka-Pendek EIA Tahun Tsb. (Des)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perkiraan Produksi Gas Alam EIA Tahun Depan (Des)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perkiraan Produksi Minyak Mentah Jangka-Pendek EIA Tahun Depan (Des)S:--
P: --
S: --
Prospek Energi Jangka Pendek Bulanan EIA
Amerika Serikat Rata-Rata Yield Lelang Uang Kertas 10 TahunS:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Stok Bensin API MingguanS:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Stok Minyak Mentah Cushing API MingguanS:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Stok Minyak Mentah API MingguanS:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Stok Minyak Olahan API MingguanS:--
P: --
S: --
Korea Selatan Tingkat Pengangguran (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Jepang Indeks Difusi Non-Manufaktur Reuters Tanken (Des)S:--
P: --
S: --
Jepang Indeks Difusi Manufaktur Reuters Tanken (Des)S:--
P: --
S: --
Jepang Indeks Harga Produsen (IHP) MoM (Nov)S:--
P: --
S: --
Jepang Indeks Harga Produk Domestik MoM (Nov)S:--
P: --
S: --
Jepang Indeks Harga Produk Domestik YoY (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan IHK YoY (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Indeks Harga Produsen (IHP) YoY (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan IHK MoM (Nov)S:--
P: --
S: --
Indonesia Penjualan Retail YoY (Okt)--
P: --
S: --
Italia Output Industri YoY (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)--
P: --
S: --
Italia Rata-Rata Yield Lelang BOT 12 Bulan--
P: --
S: --
Pidato Gubernur BOE Bailey
Presiden ECB Lagarde Berbicara
Afrika Selatan Penjualan Retail YoY (Okt)--
P: --
S: --
Brazil Indeks Inflasi IPCA YoY (Nov)--
P: --
S: --
Brazil IHK YoY (Nov)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Aktivitas Pengajuan KPR MBA per minggu--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Biaya Tenaga Kerja QoQ (kuartal 3)--
P: --
S: --
Kanada Target Bunga Semalam--
P: --
S: --
Laporan Kebijakan Moneter Dewan Komisaris
Amerika Serikat Perubahan Stok Bensin Mingguan EIA--
P: --
S: --
Amerika Serikat Permintaan Mintak Mentah EIA Mingguan dari Proyeksi Produksi--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perubahan Stok Minyak Mentah Cushing, Oklahoma Mingguan EIA--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perubahan Stok Minyak Mentah Mingguan EIA--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perubahan Impor Minyak Mentah EIA Mingguan--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perubahan Persediaan Minyak Panas EIA Mingguan--
P: --
S: --
Amerika Serikat Prediksi Suku Bunga Federal - Jangka Panjang (kuartal 4)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Prediksi Suku Bunga Federal - Tahun Ke-1 (kuartal 4)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Prediksi Suku Bunga Federal - Tahun Ke-2 (kuartal 4)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Limit Bawah Suku Bunga FOMC (Suku Bunga Reverse Repo Semalam)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Neraca Anggaran (Nov)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Limit Atas Suku Bunga FOMC (Rasio Cadangan Berlebih)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Rasio Cadangan Berlebih Efektif--
P: --
S: --
Amerika Serikat Prediksi Suku Bunga Federal - Saat Ini (kuartal 4)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Target Suku Bunga Federal.--
P: --
S: --
Amerika Serikat Prediksi Suku Bunga Fed - Tahun Ke-3 (kuartal 4)--
P: --
S: --
Pernyataan FOMC
Konferensi Pers FOMC
Brazil Target Suku Bunga Selic--
P: --
S: --


Tidak Ada Data Yang Cocok
Opini Terbaru
Opini Terbaru
Topik Populer
Kolumnis Teratas
Terbaru
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Program Afiliasi
Lihat Semua

Tidak ada data
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chuyển mình theo hướng bền vững, khái niệm "tài nguyên tuần hoàn chưa có giá" đang trở thành một trong những thách thức lớn nhất đối với việc xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn.
Thực tế cho thấy, mặc dù vật liệu tái chế và tái sử dụng mang lại những lợi ích môi trường rõ rệt, nhưng chúng vẫn gặp khó khăn để cạnh tranh về giá với vật liệu nguyên sinh hay còn gọi là vật liệu "xám". Đây không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn phản ánh những khuyết tật cấu trúc sâu sắc trong hệ thống định giá hiện tại.
Tài nguyên tuần hoàn - Vốn quý chưa được định giá đúng
Tài nguyên tuần hoàn chưa có giá được hiểu là những chất thải có khả năng tái chế, tái sử dụng hoặc phục hồi năng lượng, nhưng chưa được thị trường công nhận và định giá phù hợp với giá trị thực tế mà chúng mang lại.
Theo báo cáo của Ellen MacArthur Foundation năm 2024, khoảng 75% doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế tuần hoàn, tăng từ 40% của ba năm trước[1]. Tuy nhiên, sự gia tăng nhận thức này chưa được chuyển đổi thành hành động cụ thể do thiếu cơ chế định giá phù hợp.
Sự khác biệt cơ bản giữa tài nguyên "xám" và tài nguyên tuần hoàn nằm ở cách thị trường định giá chúng. Vật liệu nguyên sinh thường được định giá dựa trên chi phí khai thác và sản xuất trực tiếp, trong khi tài nguyên tuần hoàn phải gánh chịu thêm chi phí thu gom, phân loại, xử lý và tái chế mà không được bù đắp tương ứng. Theo nghiên cứu của OECD, việc thiếu định giá carbon và các loại thuế môi trường đã làm cho giá thật của vật liệu xám không phản ánh đúng tác động môi trường mà chúng gây ra[2].
Vai trò của định giá carbon, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) và thuế môi trường trong việc nâng cao giá thật của vật liệu xám đang được các quốc gia phát triển triển khai mạnh mẽ. Báo cáo của OECD cho thấy, tính đến năm 2021, chỉ được định giá ở mức 30 EUR mỗi tấn CO2 trở lên, và chỉ 7% được định giá trên 60 EUR mỗi tấn[3]. Điều này có nghĩa là hơn một nửa lượng phát thải toàn cầu vẫn chưa được định giá, tạo ra lợi thế cạnh tranh không công bằng cho vật liệu xám.
World Bank chỉ ra rằng, mô hình kinh tế tuyến tính "lấy-làm-sử dụng-vứt bỏ" đang ngày càng trở nên không bền vững, về mặt môi trường mà từ góc độ an ninh kinh tế. Tuy nhiên, để chuyển sang mô hình tuần hoàn, cần có những gói chính sách toàn diện để giảm tiêu thụ nguyên liệu đến 11% và tạo ra sự tách rời hiệu quả giữa tăng trưởng và sử dụng tài nguyên thô trong vòng một thập kỷ[4].
Vì sao vật liệu tuần hoàn khó cạnh tranh trên thị trường?
Chi phí xử lý, thu hồi và phân loại vật liệu tuần hoàn thường cao hơn đáng kể so với việc khai thác vật liệu thô do thiếu quy mô kinh tế và hạ tầng kỹ thuật phù hợp.
Theo nghiên cứu của ADB năm 2024 về thị trường tái chế ở châu Á, các rào cản chính bao gồm: thiếu hụt công nghệ phân loại tiên tiến, hệ thống thu gom phân tán và chi phí vận chuyển cao. Đặc biệt tại các quốc gia Đông Nam Á, hơn 70% rác thải nhựa đến từ các khu vực ngoài thành phố lớn, nơi thiếu hạ tầng thu gom và xử lý[5].
Chính sách hỗ trợ vật liệu tuần hoàn ở nhiều quốc gia vẫn chưa đầy đủ. Báo cáo của UNEP cho thấy, chi phí trực tiếp quản lý chất thải toàn cầu năm 2020 là 252 tỷ USD, nhưng khi tính cả chi phí ẩn từ ô nhiễm, sức khỏe cộng đồng và biến đổi khí hậu, con số này tăng lên 361 tỷ USD. Nếu không có hành động khẩn cấp, đến năm 2050, chi phí toàn cầu hàng năm có thể tăng gần gấp đôi lên 640.3 tỷ USD[6].
Thiếu cơ chế định lượng lợi ích môi trường trong so sánh chi phí-hiệu quả kinh tế là một rào cản khác. Theo nghiên cứu của IFC năm 2024, các doanh nghiệp thường ưu tiên vật liệu nguyên sinh do lo ngại về chi phí, chất lượng và nguồn cung. Nhu cầu đối với vật liệu tái chế còn thấp do thiếu ưu đãi chính sách như yêu cầu thiết kế sinh thái hoặc mục tiêu hàm lượng tái chế.
Số liệu từ ngành bao bì cho thấy sự chênh lệch giá đáng kể. Tại Vương quốc Anh, theo quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) mới, phí xử lý cho bao bì nhựa gia đình là 485 bảng Anh mỗi tấn, trong khi phí cho bao bì giấy/bìa chỉ là 215 bảng Anh mỗi tấn[7].
Trong ngành kim loại tái chế, những thách thức về định giá và cạnh tranh cũng hiện hữu. Theo báo cáo năm 2024 của IEEP về chiến lược tuần hoàn phục vụ chuyển đổi năng lượng sạch, kim loại thứ cấp như nhôm, đồng hay nickel tái chế về cơ bản vẫn giữ được chất lượng và giá trị sử dụng tương đương nguyên liệu nguyên sinh. Tuy nhiên, Liên minh châu Âu đang đối mặt với rủi ro thất thoát nguồn lực do nhiều vật liệu này bị xuất khẩu ra ngoài EU để xử lý vào cuối vòng đời. Để khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên thứ cấp, EU cần đầu tư mạnh vào công nghệ tái chế hiện đại và xây dựng hạ tầng xử lý trong khu vực[8].
Đối với pin đã qua sử dụng, thách thức còn lớn hơn. Theo nghiên cứu của Hàn Quốc về hệ thống khuyến khích mới cho tái chế chất thải nhựa, việc giảm thuế sản xuất 1% cho các sản phẩm bao bì nhựa sử dụng vật liệu tái chế có thể tạo ra tác động tích cực đến việc cung cấp và tạo việc làm. Tuy nhiên, tỷ lệ sản phẩm chứa vật liệu tái chế hiện tại chỉ chiếm 1% so với 99% sản phẩm không chứa vật liệu tái chế[9].

Khi thế giới bắt đầu "gắn giá" cho tài nguyên tuần hoàn
Các quốc gia EU đang dẫn đầu trong việc thiết lập giá trị cho tài nguyên tái chế thông qua nhiều cơ chế khác nhau. Theo Đạo luật nguyên liệu thô quan trọng (ECRMA), đến năm 2030, 25% tiêu thụ vật liệu chiến lược của EU sẽ được cung cấp từ tái chế trong nước. Đây là một mục tiêu đầy tham vọng, tăng từ mục tiêu ban đầu 15%.
Nhật Bản, với tư cách là một trong những quốc gia tiên phong trong lĩnh vực tái chế chất lượng cao, đã thiết lập Hội đồng Bộ trưởng về Kinh tế tuần hoàn vào tháng 7/2024. Chính phủ Nhật Bản đã phê duyệt "Gói chính sách tăng tốc chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn" vào tháng 12/2024, với sự chỉ đạo trực tiếp từ Thủ tướng về việc triển khai nhanh chóng các chính sách này. Kế hoạch quốc gia hướng tới kinh tế tuần hoàn của Nhật Bản tập trung vào bốn lĩnh vực ưu tiên: (1) nhựa và dầu thải, (2) sinh khối, (3) kim loại cơ bản và kim loại hiếm, và (4) đất, đá và vật liệu xây dựng[10].
Hàn Quốc đã triển khai các chính sách hỗ trợ vật liệu tái chế, hệ thống ưu đãi thuế và trợ cấp cho vật liệu tái chế đã được áp dụng từ năm 2021. Bộ Môi trường Hàn Quốc đã công bố ngân sách năm 2024 tăng 7.3% lên 14.4 ngàn tỷ won, trong đó có quỹ nghiên cứu và phát triển cải thiện tái chế pin thứ cấp trị giá 5 tỷ won và quỹ hỗ trợ xuất khẩu cơ sở hạ tầng xanh 60 tỷ won[11].
Vai trò của công nghệ số và blockchain trong nâng cao độ tin cậy của giá trị tuần hoàn đang được chú trọng. Digital Product Passport (DPP) của EU sẽ được triển khai từ giữa năm 2027, cung cấp thông tin toàn diện về vòng đời sản phẩm và nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc. Theo nghiên cứu của Oxera năm 2025, DPP có thể mang lại lợi ích kinh tế đáng kể thông qua ba danh mục chính: hiệu quả chi phí, giảm rào cản thương mại và tăng cường minh bạch[12].
Mô hình chứng nhận "recycled content" đang được mở rộng. Tại Vương quốc Anh, thuế bao bì nhựa đã tăng lên 223.69 bảng Anh mỗi tấn cho bao bì nhựa có ít hơn 30% hàm lượng tái chế từ tháng 4/2025[13]. Điều này tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc sử dụng vật liệu tái chế trong sản xuất.
Tài chính ưu đãi cho nhà sản xuất sử dụng nguyên liệu tuần hoàn cũng đang được phát triển, các dự án kinh tế tuần hoàn được phân loại thành ba danh mục chính: thiết kế và sản xuất tuần hoàn, sử dụng tuần hoàn, phục hồi giá trị. Hướng dẫn này cung cấp khung đánh giá để xác định xem dự án, hoạt động kinh tế hoặc công ty có thể được phân loại là đóng góp vào kinh tế tuần hoàn hay không[14].
Việt Nam cần làm gì để "gắn giá" tài nguyên tuần hoàn?
Theo Quyết định 222/QĐ-TTg ngày 23/01/2025, Kế hoạch Hành động Quốc gia về Kinh tế tuần hoàn đến năm 2035 đã được phê duyệt với mục tiêu chuyển đổi sang mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững. Các mục tiêu đặt ra như: tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 47% tổng năng lượng sơ cấp, giảm tiêu thụ năng lượng quốc gia 8-10%, đảm bảo 95% chất thải rắn đô thị và 80% chất thải nông thôn được thu gom và xử lý[15].
Đề xuất chính sách trợ giá sản phẩm tái chế trong một số ngành ưu tiên đang được xem xét. Theo dự thảo nghị định về cơ chế thí điểm phát triển kinh tế tuần hoàn do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) đề xuất, các dự án trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp, năng lượng tái tạo và vật liệu xây dựng sẽ được ưu tiên tiếp cận các khoản vay xanh ưu đãi và quyền sử dụng đất trong tối đa 5 năm. Cơ chế thí điểm này cũng đề xuất Chính phủ chi trả 50-70% chi phí đào tạo nghề và các khóa học quản lý kinh doanh[16].
Thiết lập hệ thống MRV (Measurement, Reporting, Verification) cho vật liệu tái chế - tái sử dụng trong chuỗi cung ứng là một yêu cầu cấp thiết. Cổng thông tin quốc gia về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất đã được đưa vào hoạt động tại địa chỉ https://epr.monre.gov.vn/, hỗ trợ các nhà sản xuất và nhập khẩu trong việc đăng ký, khai báo và báo cáo hoạt động. Tuy nhiên, hệ thống này cần được mở rộng để bao gồm khả năng theo dõi và xác minh chất lượng vật liệu tái chế trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Cơ hội gọi vốn xanh đang được mở rộng. Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến cuối tháng 3/2025, dư nợ tín dụng xanh đạt hơn 704,244 tỷ đồng, chiếm 4.3% tổng dư nợ toàn nền kinh tế[17]. Các quỹ này chủ yếu tập trung vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (hơn 37% ) và nông nghiệp xanh (hơn 30%)[18]. Tuy nhiên, cần mở rộng phạm vi tín dụng xanh để bao gồm cả các dự án kinh tế tuần hoàn cụ thể.
Bên cạnh đó, các bộ, ngành đang khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý và hạ tầng kỹ thuật để vận hành thí điểm sàn giao dịch carbon trong năm 2025, hướng tới mục tiêu hoạt động chính thức vào năm 2029[19].
Ngoài ra, GGGI đã huy động hơn 300 triệu USD cho các khoản đầu tư xanh tại Việt Nam và đang hướng tới mục tiêu 1 tỷ USD vào năm 2028[20]. Khung Kế hoạch Quốc gia Việt Nam-GGGI 2024-2028 tập trung vào 7 lĩnh vực chiến lược: đầu tư xanh, hành động khí hậu, công nghiệp xanh, nông nghiệp thích ứng khí hậu, quản lý chất thải, tòa nhà xanh và định giá carbon.
UNDP cũng đang hỗ trợ quá trình chuyển đổi này. Theo Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, bà Ramla Khalidi, để tăng tốc chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn, Việt Nam cần tập trung vào: tích hợp thiết kế sinh thái và thiết kế tuần hoàn vào chính sách, đưa các mục tiêu có thể đo lường vào lộ trình kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy đổi mới và cải thiện năng lực cạnh tranh. Ưu tiên cần được dành cho các ngành chủ chốt như nông nghiệp, điện tử, nhựa, dệt may và vật liệu xây dựng[21].
Để thực hiện thành công việc "gắn giá" tài nguyên tuần hoàn, Việt Nam cần một lộ trình toàn diện kết hợp giữa chính sách, công nghệ và tài chính. Điều quan trọng là phải tạo ra hệ sinh thái hỗ trợ từ nghiên cứu phát triển công nghệ tái chế tiên tiến đến xây dựng thị trường tiêu thụ vật liệu tái chế, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và truy xuất nguồn gốc trong toàn bộ chuỗi giá trị tuần hoàn.
[1] https://content.ellenmacarthurfoundation.org/m/6b9b37a53360393e/original/Impact-Report-Summary-2024.pdf
[2] https://www.oecd.org/content/dam/oecd/en/publications/reports/2023/11/effective-carbon-rates-2023_a0dc16cc/b84d5b36-en.pdf
[3] https://www.oecd.org/content/dam/oecd/en/publications/reports/2023/11/effective-carbon-rates-2023_a0dc16cc/b84d5b36-en.pdf
[4] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2022/12/06/world-bank-releases-its-first-report-on-the-circular-economy-says-decoupling-growth-from-resource-use-in-europe-achievab
[5] https://www.eu-asean.eu/wp-content/uploads/2025/05/EU-ABC-EPR-Report-2025-1.pdf
[6] https://pure.iiasa.ac.at/id/eprint/19556/
[7] https://www.taxadvisermagazine.com/article/uks-packaging-extended-producer-responsibility
[8] https://ieep.eu/wp-content/uploads/2024/06/Circularity-strategies-and-resource-management-to-safeguard-the-clean-energy-transition-IEEP-2024.pdf
[9] https://www.kei.re.kr/elibList.es?mid=a20403020000&elibName=researchreport&class_id=&act=view&c_id=735271&rn=289&nPage=29&keyField=
[10] https://www.jica.go.jp/activities/issues/env_manage/jcci/__icsFiles/afieldfile/2025/03/26/3-1_Circular_Economy_Ko-Matsuura.pdf
[11] https://www.argusmedia.com/en/news-and-insights/latest-market-news/2484228-korea-environment-ministry-s-net-zero-2024-budget-falls
[12] https://www.oxera.com/wp-content/uploads/2025/05/The-benefits-and-costs-of-digital-product-labelling.pdf
[13] https://www.taxadvisermagazine.com/article/uks-packaging-extended-producer-responsibility
[14] https://www.ifc.org/content/dam/ifc/doc/2025/harmonized-circular-economy-finance-guidelines-en.pdf
[15] https://www.vietnam-briefing.com/news/vietnam-national-action-plan-circular-economy-2035.html/
[16] https://en.vcci.com.vn/vietnam-prioritizes-agriculture-and-renewable-energy-for-access-to-green-loans
[17] https://www.agribank.com.vn/vn/ve-agribank/tin-tuc-su-kien/cac-tin-khac/tuoi-tre-agribank/mo-duong-cho-tin-dung-xanh-phat-trien-ben-vung
[18] https://thesaigontimes.vn/du-no-tin-dung-xanh-tang-vuot-700-000-ti-dong/
[19] https://agg.vnua.edu.vn/tin-tuc-su-kien/minh-bach-giup-san-giao-dich-tin-chi-carbon-van-hanh-hieu-qua-63012
[20] https://en.vneconomy.vn/vietnam-strengthens-partnership-with-gggi-for-green-growth.htm
[21] https://vietnamlawmagazine.vn/undp-to-support-vietnam-on-path-toward-circular-economy-73163.html
Nguyễn Nhiều Lộc
FILI - 19:00:00 23/09/2025

Ngành dệt may Việt Nam đang đối mặt với áp lực chuyển đổi mạnh mẽ từ yêu cầu phát triển bền vững và cam kết giảm phát thải carbon toàn cầu. Với tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2024 đạt khoảng 44 tỷ USD, tăng 11.3% so với năm 2023 và vị thế là quốc gia xuất khẩu dệt may lớn thứ ba thế giới, ngành này đóng góp tới 16% GDP quốc gia và tạo việc làm cho khoảng 12% lực lượng lao động công nghiệp.
Tỷ đồng
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công về mặt kinh tế cũng đi kèm song song với chi phí môi trường khổng lồ. Việt Nam cam kết đạt mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 và giảm phát thải khí nhà kính ít nhất 8% vào năm 2030[1], việc chuyển đổi ngành dệt may theo mô hình kinh tế tuần hoàn không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc để duy trì tính cạnh tranh và phát triển bền vững.
Bức tranh toàn cảnh ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam hiện đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia với khoảng 7,000 doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên và tổng cộng khoảng 3.4 triệu lao động.
Sự phát triển mạnh mẽ này đi kèm với những tác động môi trường đáng báo động. Theo Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS), ngành dệt may của Việt Nam phát thải khoảng 5 triệu tấn CO2 mỗi năm. Con số này đặt Việt Nam trong nhóm các quốc gia có mức phát thải cao từ ngành dệt may, đặc biệt khi so với quy mô sản xuất. Các quy trình xử lý ướt hàng dệt may (sợi, vải và hàng may) sử dụng rất nhiều tài nguyên nước cho các khâu giặt, giũ, tiền xử lý, nhuộm và hoàn tất sau xử lý[2].
Theo nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Đình Thọ (Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường) và Lê Thị Lan (Bộ Tài nguyên và Môi trường), ngành dệt may toàn cầu tiêu thụ khoảng 93 tỷ m3 nước mỗi năm, đủ để cung cấp nước sinh hoạt cho 5 triệu người . Mức tiêu thụ nước của ngành dệt may chiếm tới gần 4% tổng lượng nước ngọt khai thác trên toàn cầu, cho thấy quy mô tiêu thụ tài nguyên nước của ngành rất lớn[3]. Trong bối cảnh nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm, việc giảm thiểu lượng nước sử dụng trong sản xuất dệt may vừa là thách thức lớn vừa là yêu cầu cấp thiết để hướng tới phát triển bền vững và bảo vệ môi trường toàn cầu.
Theo báo cáo về Tái chế chất thải dệt may trước khi tiêu dùng tại Việt Nam được thực hiện bởi Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ), ngành dệt may của Việt Nam tạo ra khoảng 250,000 tấn chất thải hằng năm trước khi đến tay người tiêu dùng, con số này chưa bao gồm chất thải đến từ giày dép và sản xuất trong nước. Hiện tại, khoảng 60% chất thải này được phân loại, xử lý sơ bộ và sau đó tái chế thông qua các quy trình cơ học và nhiệt cơ cơ bản. Phần lớn số đó được tái chế thành các sản phẩm có chất lượng thấp hơn (gọi là tái chế giảm chất lượng). Còn lại 40% chất thải được đưa đến các nhà máy chuyển đổi chất thải thành năng lượng hoặc các phương pháp xử lý khác[4].
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, ngành dệt may Việt Nam đã đặt ra mục tiêu giảm tiêu thụ năng lượng 15% và tiêu thụ nước 20%. Điều này phù hợp với Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực từ đầu năm 2022, trong đó quy định kiểm tra nghiêm ngặt đối với các nhà máy tiêu thụ năng lượng lớn. Đồng thời, các thương hiệu cũng bắt đầu yêu cầu các đối tác sản xuất phải tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (ESG)[5].
Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành Quyết định 1643/QD-TTg ngày 29/12/2023 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Dệt May, Da Giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035[6]. Theo chiến lược này, ngành dệt may sẽ phát triển hiệu quả và bền vững bằng cách áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, hoàn thiện chuỗi giá trị sản xuất trong nước, tham gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển một số thương hiệu khu vực và thế giới vào năm 2035.
Kinh tế tuần hoàn trong ngành dệt may
Mô hình kinh tế tuần hoàn đại diện cho sự chuyển đổi từ mô hình kinh tế truyền thống "khai thác – sản xuất – tiêu dùng – thải bỏ" sang mô hình hướng tới việc tái sử dụng, tái chế và phục hồi nguyên liệu trong chu trình sản xuất và tiêu dùng, giúp kéo dài vòng đời sản phẩm và nguồn tài nguyên.
Theo Quỹ Ellen MacArthur, kinh tế tuần hoàn cho ngành dệt may cung cấp một cách tiếp cận bền vững, tái tạo để giảm thiểu chất thải và tác động môi trường, nhấn mạnh việc thiết kế, sản xuất, sử dụng dệt may để thúc đẩy độ bền, tái sử dụng, tái chế và xử lý có trách nhiệm[7].
Việc chuyển đổi theo hướng các mô hình kinh doanh dệt may tuần hoàn có thể tạo ra 700 tỷ USD giá trị kinh tế vào năm 2030 trên toàn cầu, trong khi mỗi 1% tăng thị phần của các mô hình kinh doanh tuần hoàn có khả năng giảm 13 triệu tấn CO2 tương đương[8]. Đây là cơ hội để Việt Nam giảm thiểu tác động môi trường và tăng cường tính cạnh tranh, tạo ra giá trị gia tăng cho ngành.
Mô hình kinh tế tuần hoàn trong ngành dệt may đang được thúc đẩy mạnh mẽ trên toàn cầu, đặc biệt tại các thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam. Liên minh châu Âu (EU) đã thông qua Chiến lược Dệt may Bền vững và Tuần hoàn vào tháng 3/2022, chuyển đổi cách sản xuất và tiêu dùng dệt may[9]. Chiến lược EU tập trung vào ba trụ cột chính: chuyển đổi mô hình tiêu dùng, cải thiện thực hành sản xuất và đầu tư cơ sở hạ tầng[10].
EU đã đưa ra quy định về Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đối với các sản phẩm dệt may, được áp dụng từ năm 2025[11]. Điều này có nghĩa các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm thu hồi và xử lý sản phẩm sau khi người tiêu dùng ngừng sử dụng.
Kinh nghiệm từ Bangladesh từ chương trình “Hợp tác vì ngành dệt may sạch hơn” do IFC dẫn dắt đã giúp hơn 450 nhà máy dệt may giảm 35 tỷ lít tiêu thụ nước ngọt và cắt giảm 29 tỷ lít nước thải hàng năm ra môi trường. Chương trình này cũng giúp tiết kiệm 3.8 triệu megawatt giờ năng lượng mỗi năm và giảm 723,617 tấn phát thải carbon hàng năm, tương đương việc loại bỏ gần 160,000 chiếc ô tô khỏi đường phố mỗi năm[12].
Tại Việt Nam, Chương trình Cải thiện Việt Nam (VIP) của IFC đã hỗ trợ 82 nhà máy dệt may, may mặc và giày dép đầu tư 37 triệu USD vào các biện pháp hiệu quả tài nguyên, giúp họ tiết kiệm 30 triệu USD chi phí vận hành nước, hóa chất và năng lượng hàng năm. Ngoài ra, các nhà máy này đã cùng nhau tiết kiệm được 4 triệu m3 nước và giảm 303,000 tấn phát thải khí nhà kính hàng năm[13].
Áp lực tăng cường tái chế và giảm phát thải theo yêu cầu quốc tế
Việt Nam đang đối mặt với khoảng cách đáng kể so với các tiêu chuẩn quốc tế về kinh tế tuần hoàn trong ngành dệt may. Hiện tại, chỉ khoảng 60% chất thải dệt may được tái chế, chủ yếu thông qua tái chế cơ học cơ bản, tạo ra các sản phẩm chất lượng thấp hơn.
Hệ thống tái chế dệt may của Việt Nam gồm hơn 200 cơ sở chất thải, bao gồm các nhà thu gom, tập hợp, tiền xử lý và tái chế. Tuy nhiên, mạng lưới này rất phân mảnh và thiếu minh bạch, làm phức tạp quá trình truy xuất nguồn gốc chất thải và quy trình thẩm định. Nhiều cơ sở xử lý chất thải thường xuyên đối mặt với các vấn đề tuân thủ, với những lo ngại đáng chú ý về sức khỏe và an toàn nghề nghiệp[14].
Với EU, phần lớn các nhà sản xuất Việt Nam trong chuỗi cung ứng dệt may đang nhận được các yêu cầu xanh từ các thương hiệu lớn, như trách nhiệm xã hội và môi trường cũng như giảm phát thải carbon. Vào đầu tháng 4/2022, Ủy ban châu Âu (EC) yêu cầu hàng may mặc tại EU phải bền, có thể tái sử dụng, có thể sửa chữa. Để đạt được tiêu chuẩn này, các nhà sản xuất phải sử dụng sợi tái chế, không chứa chất độc hại, thân thiện với môi trường. Ngoài ra, khi hàng dệt may không còn sử dụng được nữa, các nhà sản xuất có trách nhiệm thu hồi và tái chế, hạn chế tối đa việc đốt và chôn lấp. Tất cả thông tin liên quan đến tính bền vững của sản phẩm phải được các nhà sản xuất cung cấp minh bạch cho người tiêu dùng thông qua hộ chiếu sản phẩm kỹ thuật số (DPP)[15].
Cơ hội và thách thức trong việc giảm thiểu tác động môi trường
Sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong nước với các tổ chức quốc tế như Tổ chức Sáng kiến Thương mại Bền vững (IDH) đã tạo ra tiền đề quan trọng để áp dụng, nhân rộng các mô hình sản xuất bền vững, thúc đẩy chứng nhận và dán nhãn sinh thái đối với các sản phẩm dệt may da giày. Điều này giúp nâng cao uy tín thương hiệu, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường toàn cầu[16].
Bên cạnh đó, xu hướng chuyển dịch sang sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường đang ngày càng rõ nét. Ví dụ, nhu cầu tiêu thụ vải dệt thoi từ sợi tơ tằm đã tăng gấp 9 lần trong quý 4/2023 so với cùng kỳ năm 2022, thể hiện sự quan tâm và đầu tư mạnh mẽ vào các vật liệu bền vững[17]. Những dự án như “Xanh hóa ngành dệt may” do WWF Việt Nam phối hợp với VITAS và sự hỗ trợ tài chính từ HSBC, Cơ quan Phát triển và Hợp tác Thụy Sĩ, và Tommy Hilfiger đã triển khai góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên nước và năng lượng, đồng thời hướng tới tăng cường quản lý lưu vực sông Mekong – một trong những nguồn tài nguyên quan trọng của Việt Nam[18].
Dù có nhiều cơ hội, ngành dệt may Việt Nam vẫn phải đối mặt với không ít thách thức trong quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn, giảm thiểu tác động môi trường. Trước hết, quy trình sản xuất dệt may vốn phức tạp với nhiều công đoạn khác nhau, sử dụng đa dạng loại hóa chất để tạo màu sắc và tính năng sản phẩm, dẫn đến nguy cơ phát sinh nhiều loại chất thải nguy hại.
Các hóa chất trong nhuộm và xử lý vải, như thuốc nhuộm azo, chất làm mềm, chất khử mùi, các hợp chất chứa kim loại nặng, có thể gây ô nhiễm nguồn nước và đất nếu không được xử lý đúng cách. Ngoài ra, khí thải hữu cơ dễ bay hơi (VOC) phát sinh khi sản xuất ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe người lao động, môi trường.
Đặc biệt, nước thải công nghiệp chứa nhiều chất ô nhiễm nếu không được xử lý đạt chuẩn sẽ gây ra hiện tượng phú dưỡng, làm suy thoái hệ sinh thái thủy sinh, ảnh hưởng lâu dài đến sự cân bằng sinh thái, nguồn lợi thủy sản. Thêm vào đó, việc thiếu đồng bộ, phân mảnh trong hệ thống tái chế chất thải dệt may tại Việt Nam; cùng với các vấn đề về tuân thủ quy định, an toàn nghề nghiệp, đặt ra nhiều khó khăn trong việc triển khai các giải pháp bền vững một cách hiệu quả và bền lâu.
[1] https://betterwork.org/greening-viet-nams-textile-and-garment-sector-a-high-stakes-challenge/
[2] https://vov2.vov.vn/doi-song-xa-hoi/5-trieu-tan-co2-moi-nam-va-thach-thuc-moi-truong-trong-nganh-det-may-da-giay-51155
[3] https://vneconomy.vn/xanh-hoa-nganh-det-may-co-hoi-doanh-nghiep-nang-cao-canh-tranh-xuat-khau.htm
[4] https://www.giz.de/de/downloads/giz2025-en-ecosystem-mapping.pdf
[5] https://betterwork.org/greening-viet-nams-textile-and-garment-sector-a-high-stakes-challenge/
[6] https://datafiles.chinhphu.vn/cpp/files/vbpq/2022/12/1643ttg.signed.pdf
[7] https://www.ellenmacarthurfoundation.org/a-new-textiles-economy
[8] https://circulareconomy.europa.eu/platform/sites/default/files/2023-12/Full%20Report%20-%20UNEP%20Sustainability%20and%20Circularity%20in%20the%20Textile%20Value%20Chain%20A%20Global%20Roadmap_0.pdf
[9] https://www.dodspoliticalintelligence.com/wp-content/uploads/2024/07/Dods-Political-Intelligence-Strategy-for-Sustainable-and-Circular-Textiles.pdf
[10] https://www.unep.org/resources/publication/sustainability-and-circularity-textile-value-chain-global-roadmap
[11] https://cebid.vn/nganh-det-may-no-luc-giam-phat-thai/
[12] https://www.apparelviews.com/ifc-led-pact-programme-drives-sustainable-transformation-in-bangladesh-textile-industry/
[13] https://www.ifc.org/en/pressroom/2019/ifc-helps-apparel-and-textile-suppliers-in-vietnam-save-30-million-a-year-through-resource-efficiency-measures
[14] https://www.giz.de/de/downloads/giz2025-en-ecosystem-mapping.pdf
[15] https://www.hkbav.org/-greening-textile-and-garment-for-sustainable-development_news21850
[16] https://vov2.vov.vn/doi-song-xa-hoi/5-trieu-tan-co2-moi-nam-va-thach-thuc-moi-truong-trong-nganh-det-may-da-giay-51155
[17] https://viracresearch.com/so-lieu-thong-ke-nganh-det-may-viet-nam-2023/
[18] https://vietnam.panda.org/?366522%2FGuidelines-for-Greening-the-Textile-Sector-in-Viet-Nam
Phạm Hoàng Phúc
FILI - 13:12:17 17/06/2025
Dược Đồng Nai (DPP) dự kiến chia cổ tức năm 2020 bằng tiền, tỷ lệ 15%
HĐQT CTCP Dược Đồng Nai (DPP – UPCoM) vừa thống nhất các nội dung chuẩn bị cho ĐHĐCĐ nhiệm kỳ IV (2021 – 2026) và phân phối lợi nhuận năm 2020.
Theo đó, ngày 18/3 tới đây Công ty sẽ chốt danh sách cổ đông tổ chức ĐHCĐ. Ngày họp HĐQT để thông qua các nội dung là ngày 23/3, thời gian tổ chức Đại hội vào ngày 20/4, tại Văn phòng Công ty, số 221B, đường Phạm Văn Thuận, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Về kế hoạch phân phối lợi nhuận năm 2020, Dược Đồng Nai dự kiến sẽ chia cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ 15%, tương ứng cổ đông sở hữu 1 cổ phiếu sẽ được nhận 1.500 đồng. Ngoài ra, DPP còn trích quỹ đầu tư phát triển gần 638 triệu đồng, quỹ khen thưởng gần 319 triệu đồng, quỹ phúc lợi gần 638 triệu đồng…
Bên cạnh đó, HĐQT Công ty còn thông qua định hướng phát triển nhiệm kỳ IV, thống nhất tập trung phát triển mảng sản xuất, thuê tư vấn lập dự án xây dựng nhà máy sản xuất thuốc tại địa điểm mới.
Ngoài ra, căn cứ vào đơn xin nghỉ việc của ông Nguyễn lê Thiên, HĐQT Dược Đồng Nai đã thông qua việc miễn nhiệm chức danh Phó tổng giám đốc Công ty đối với ông Thiên kể từ ngày 1/3/2021.
Được thành lập trên cơ sở hợp nhất từ Công ty Dược phẩm Đồng Nai và Công ty Dược và Vật tư Y tế Đồng Nai, DPP hiện có vốn điều lệ 30 tỷ đồng, lĩnh vực kinh doanh chính là dược phẩm, dược liệu.
Cổ phiếu DPP được đăng ký giao dịch trên UPCoM từ giữa tháng 5/2010. Trên thị trường, đóng cửa phiên giao dịch hôm nay ngày 2/3, cổ phiếu DPP tăng 1,2% lên mức 16.400 đồng/CP, tuy nhiên thanh khoản vẫn nhỏ giọt với chỉ 500 cổ phiếu được khớp lệnh.
Dược Đồng Nai lên kế hoạch lãi trước thuế 2020 đạt 8 tỷ đồng
HĐQT CTCP Dược Đồng Nai (UPCoM: DPP) vừa thông qua Nghị quyết đưa ra kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2019 với lãi trước thuế đạt 8 tỷ đồng.
Cụ thể, DPP lên kế hoạch doanh thu năm 2020 đạt 300 tỷ đồng và lãi trước thuế đạt 8 tỷ đồng, lần lượt tăng 8% và 11% so với kết quả thực hiện năm 2019.
Bên cạnh đó, DPP cũng lên kế hoạch đầu tư 5 tỷ đồng cho xây dựng cơ bản, máy móc, thiết bị năm 2020.
Về kết quả kinh doanh năm 2019, DPP ghi nhận doanh thu thuần và lãi sau thuế lần lượt đạt hơn 279 tỷ đồng và gần 6 tỷ đồng, tăng 10% và 15% so với năm trước. Như vậy, kết thúc năm 2019, DPP đã hoàn thành 116% kế hoạch tổng doanh thu và 103% kế hoạch lãi sau thuế.
Trên thị trường, giá cổ phiếu DPP đang giao dịch quanh mức 16,000 đồng/cp (10h ngày 02/03/2020), tăng 45% qua 1 năm với khối lượng giao dịch bình quân chỉ vỏn vẹn 30 cp/phiên.
Diến biến giá cổ phiếu DPP từ đầu năm 2019 đến nay
Dược Đồng Nai lên kế hoạch lãi trước thuế 2020 đạt 8 tỷ đồng
HĐQT CTCP Dược Đồng Nai (UPCoM: DPP) vừa thông qua Nghị quyết đưa ra kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2019 với lãi trước thuế đạt 8 tỷ đồng.
Cụ thể, DPP lên kế hoạch doanh thu năm 2020 đạt 300 tỷ đồng và lãi trước thuế đạt 8 tỷ đồng, lần lượt tăng 8% và 11% so với kết quả thực hiện năm 2019.
Bên cạnh đó, DPP cũng lên kế hoạch đầu tư 5 tỷ đồng cho xây dựng cơ bản, máy móc, thiết bị năm 2020.
Về kết quả kinh doanh năm 2019, DPP ghi nhận doanh thu thuần và lãi sau thuế lần lượt đạt hơn 279 tỷ đồng và gần 6 tỷ đồng, tăng 10% và 15% so với năm trước. Như vậy, kết thúc năm 2019, DPP đã hoàn thành 116% kế hoạch tổng doanh thu và 103% kế hoạch lãi sau thuế.
Trên thị trường, giá cổ phiếu DPP đang giao dịch quanh mức 16,000 đồng/cp (10h ngày 02/03/2020), tăng 45% qua 1 năm với khối lượng giao dịch bình quân chỉ vỏn vẹn 30 cp/phiên.
Diến biến giá cổ phiếu DPP từ đầu năm 2019 đến nay
Nguồn: VietstockFinance
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Pembuat Poster
Program Afiliasi
Berdagang Instrumen Keuangan Seperti Saham, Mata Uang, Komoditas, Kontrak Berjangka, Obligasi, Dana, Atau Mata Uang Kripto Adalah Perilaku Berisiko Tinggi, Termasuk Kehilangan Sebagian Atau Seluruh Jumlah Investasi Anda, Sehingga Perdagangan Tidak Cocok Untuk Semua Investor.
Anda Harus Melakukan Uji Tuntas Anda Sendiri, Menggunakan Penilaian Anda Sendiri, Dan Berkonsultasi Dengan Penasihat Yang Memenuhi Syarat Saat Membuat Keputusan Keuangan Apa Pun. Konten Situs Web Ini Tidak Ditujukan Kepada Anda, Situasi Keuangan Atau Kebutuhan Anda Juga Tidak Diperhitungkan. Informasi Yang Terdapat Di Situs Web Ini Belum Tentu Tersedia Secara Waktu Nyata, Juga Belum Tentu Akurat. Setiap Pesanan Atau Keputusan Keuangan Lainnya Yang Anda Buat Sepenuhnya Menjadi Tanggung Jawab Anda Dan Anda Tidak Boleh Bergantung Pada Informasi Apa Pun Yang Disediakan Melalui Situs Web. Kami Tidak Memberikan Jaminan Apa Pun Untuk Informasi Apa Pun Di Situs Web Dan Tidak Bertanggung Jawab Atas Kerugian Transaksi Apa Pun Yang Mungkin Timbul Dari Penggunaan Informasi Apa Pun Di Situs Web.
Dilarang Menggunakan, Menyimpan, Menggandakan, Menampilkan, Memodifikasi, Menyebarluaskan Atau Mendistribusikan Data Yang Terdapat Dalam Situs Web Ini Tanpa Izin Tertulis Dari Situs Web Ini. Semua Hak Kekayaan Intelektual Dilindungi Oleh Pemasok Dan Bursa Yang Menyediakan Data Yang Terdapat Di Situs Web Ini.
Tidak Masuk
Masuk untuk mengakses lebih banyak fitur

Anggota FastBull
Belum
Pembelian
Masuk
Daftar