Kutipan
Berita
Analisis
Pengguna
24/7
Kalender Ekonomi
Pendidikan
Data
- Nama
- Nilai Terbaru
- Sblm.












Akun Sinyal untuk Anggota
Semua Akun Sinyal
Semua Kontes



Perancis Akun Perdagangan (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)S:--
P: --
Zona Euro Jumlah Tenaga Kerja YoY(Penyesuaian Per Kuartal) (kuartal 3)S:--
P: --
Kanada Jumlah Tenaga Kerja Paruh Waktu (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Kanada Tingkat Pengangguran (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Kanada Jumlah Tenaga Kerja Permanen (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Kanada Partisipasi Ketenagakerjaan (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Kanada Jumlah Tenaga Kerja (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Harga Komoditas PCE MoM (Sep)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Pendapatan Pribadi MoM (Sep)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Harga PCE Inti MoM (Sep)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Harga Komoditas PCE YoY (Penyesuaian Per Kuartal) (Sep)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Harga PCE Inti YoY (Sep)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Pengeluaran Pribadi MoM (Penyesuaian Per Kuartal) (Sep)S:--
P: --
Amerika Serikat Ekspektasi Inflasi 5-10-Tahun (Des)S:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Pengeluaran Konsumsi Pribadi Riil MoM (Sep)S:--
P: --
Amerika Serikat Total Pengeboran MingguanS:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Total Nilai Pengeboran Bahan Bakar Fosil MingguanS:--
P: --
S: --
Amerika Serikat Pinjaman Konsumsi (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)S:--
P: --
China, Daratan Cadangan Devisa (Nov)S:--
P: --
S: --
Jepang Akun Perdagangan (Okt)S:--
P: --
S: --
Jepang Revisi PDB Nominal QoQ (kuartal 3)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Nilai Impor YoY (CNY) (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Ekspor (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Nilai Impor (CNY) (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Akun Perdagangan (CNY) (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Nilai Ekspor YoY (USD) (Nov)S:--
P: --
S: --
China, Daratan Nilai Impor YoY (USD) (Nov)S:--
P: --
S: --
Jerman Output Industri MoM (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)S:--
P: --
Zona Euro Indeks Keyakinan Investor Sentrix (Des)S:--
P: --
S: --
Kanada Indeks Keyakinan Ekonomi NasionalS:--
P: --
S: --
U.K. Tingkat Penjualan Ritel Sejenis BRC YoY (Nov)--
P: --
S: --
U.K. Total Penjualan Ritel BRC YoY (Nov)--
P: --
S: --
Australia Bunga Pinjaman Semalam--
P: --
S: --
Pernyataan Suku Bunga RBA
Konferensi Pers RBA
Jerman Ekspor MoM (SA) (Okt)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Indeks Kepercayaan Industri Kecil NFIB (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)--
P: --
S: --
Meksiko Inflasi 12 Bulan (CPI) (Nov)--
P: --
S: --
Meksiko IHK Inti YoY (Nov)--
P: --
S: --
Meksiko Indeks Harga Produsen (IHP) YoY (Nov)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Nilai Penjualan Bisnis Retail Mingguan Redbook YoY--
P: --
S: --
Amerika Serikat Tingkat Lowongan Pekerjaan - JOLTS (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)--
P: --
S: --
China, Daratan Uang Beredar M1 YoY (Nov)--
P: --
S: --
China, Daratan Uang Beredar M0 YoY (Nov)--
P: --
S: --
China, Daratan Uang Beredar M2 YoY (Nov)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perkiraan Produksi Minyak Mentah Jangka-Pendek EIA Tahun Tsb. (Des)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perkiraan Produksi Gas Alam EIA Tahun Depan (Des)--
P: --
S: --
Amerika Serikat Perkiraan Produksi Minyak Mentah Jangka-Pendek EIA Tahun Depan (Des)--
P: --
S: --
Prospek Energi Jangka Pendek Bulanan EIA
Amerika Serikat Stok Bensin API Mingguan--
P: --
S: --
Amerika Serikat Stok Minyak Mentah Cushing API Mingguan--
P: --
S: --
Amerika Serikat Stok Minyak Mentah API Mingguan--
P: --
S: --
Amerika Serikat Stok Minyak Olahan API Mingguan--
P: --
S: --
Korea Selatan Tingkat Pengangguran (Penyesuaian Per Kuartal) (Nov)--
P: --
S: --
Jepang Indeks Difusi Non-Manufaktur Reuters Tanken (Des)--
P: --
S: --
Jepang Indeks Difusi Manufaktur Reuters Tanken (Des)--
P: --
S: --
Jepang Indeks Harga Produk Domestik MoM (Nov)--
P: --
S: --
Jepang Indeks Harga Produk Domestik YoY (Nov)--
P: --
S: --
China, Daratan Indeks Harga Produsen (IHP) YoY (Nov)--
P: --
S: --
China, Daratan IHK MoM (Nov)--
P: --
S: --
Italia Output Industri YoY (Penyesuaian Per Kuartal) (Okt)--
P: --
S: --


Tidak Ada Data Yang Cocok
Opini Terbaru
Opini Terbaru
Topik Populer
Kolumnis Teratas
Terbaru
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Program Afiliasi
Lihat Semua

Tidak ada data

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của hệ thống ngân hàng tiếp tục xu hướng phục hồi trong quý 3. Việc nợ xấu được kiểm soát tốt giúp các ngân hàng có thêm thời gian để bồi đắp bộ đệm sau giai đoạn sụt giảm mạnh lúc trước. Mỗi ngân hàng thực hiện các chính sách trích lập dự phòng khác nhau dựa trên định hướng chiến lược riêng, từ đó tạo nên sự phân hóa trong chính sách trích lập dự phòng giữa các nhóm.
Trong quý 3, các ngân hàng tiếp tục duy trì sự chủ động trong việc củng cố khả năng hấp thụ rủi ro. Song, chi phí dự phòng chỉ tăng ở mức thấp, cho thấy áp lực bổ sung dự phòng chưa lớn. Mặt khác, điều này cũng thể hiện những ưu tiên nguồn lực của ngân hàng vào các mục tiêu tăng trưởng khác, hơn là mở rộng trích lập dự phòng.
Báo cáo tài chính quý 3/2025 mang đến cái nhìn rõ nét hơn về tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của hệ thống ngân hàng, với những tín hiệu tích cực sau khi ngành bước qua giai đoạn khó khăn nhất liên quan đến chất lượng danh mục cho vay. Tốc độ hình thành nợ xấu đã giảm đáng kể, góp phần hạ nhiệt áp lực lên bộ đệm dự phòng. Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang được đẩy mạnh, các ngân hàng vẫn ưu tiên phân bổ nguồn lực cho mở rộng cho vay, chi phí dự phòng tiếp tục tăng theo chu kỳ, nhưng không xuất hiện dấu hiệu trích lập mạnh như các giai đoạn căng thẳng trước đó.
Bức tranh chung cũng cho thấy sự phân hóa ngày càng rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng. Nhóm quốc doanh tập trung gia cố lại bộ đệm, phản ánh chiến lược tăng bộ đệm phòng thủ sau giai đoạn nợ xấu tăng nhanh. Ngược lại, nhóm ngân hàng bán lẻ và nhóm quy mô nhỏ ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu cải thiện nhờ kiểm soát chặt hơn tốc độ phát sinh nợ xấu và duy trì đà trích lập vừa phải.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng bán buôn lại điều chỉnh giảm tỷ lệ bao phủ trong ngắn hạn do ảnh hưởng từ việc nợ xấu tăng nhanh hơn. Nhìn chung, các ngân hàng vẫn duy trì mức trích lập đều đặn, ưu tiên nâng cao hiệu quả quản trị và xử lý nợ để giảm gánh nặng dự phòng. Điều này phản ánh chiến lược chủ đạo trong quý 3: thay vì tăng mạnh trích lập, các ngân hàng hướng tới giữ bộ đệm ở mức cân bằng - đủ để bảo đảm an toàn hệ thống nhưng không làm ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận của năm.
Đánh giá nợ xấu và mức bao phủ nợ xấu của ngành ngân hàng
Trong quý 3/2025, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) toàn ngành đạt 83.93%, nhích lên so với mức 82.54% của cùng kỳ. Quan trọng hơn, so với hai quý đầu năm, tỷ lệ này đã cải thiện rõ rệt khi tăng từ mức 79.32% của quý 2.
Để lý giải biến động của tỷ lệ LLR, cần phân tích hai cấu phần chính: số dư dự phòng đã trích lập trong kỳ, và diễn biến quy mô nợ xấu. Về nợ xấu, tổng nợ xấu của các ngân hàng niêm yết tăng 8.1% so với cùng kỳ - một mức tăng đã chậm lại rõ rệt so với các năm 2022-2024. Ở chiều ngược lại, quy mô dự phòng nợ xấu đã đạt khoảng 230,000 tỷ đồng, tương ứng tăng 9.9% so với cùng kỳ và 11.3% so với đầu năm. Đây là mức tăng cao so với tốc độ trung bình 8% từ năm 2023 đến nay.
Để nâng bộ đệm dự phòng, riêng trong quý 3, ngành ngân hàng đã trích lập thêm hơn 35,500 tỷ đồng. Đáng chú ý, dự phòng chung tăng mạnh 14.85% so với cuối năm 2024 (tương đương 20.7% YoY), trong khi dự phòng cụ thể chỉ tăng khoảng 8.64% (tương đương 2.8% YoY).
Khác với giai đoạn 2021-2022 khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhưng phần tăng dự phòng chủ yếu đến từ bổ sung dự phòng cụ thể (phản ánh chất lượng tài sản xấu đi) đợt tăng dự phòng hiện tại mang tính phòng thủ và củng cố bộ đệm, hơn là phát sinh các vấn đề mới về chất lượng tín dụng. Điều này cho thấy các ngân hàng đang chủ động chuẩn bị cho chu kỳ tín dụng tăng nhanh và các rủi ro tiềm ẩn có thể xuất hiện trong giai đoạn cao điểm cuối năm.
Diễn biến tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành
Đối với bao phủ nợ xấu, khối ngân hàng quốc doanh là nhóm có tỷ lệ LLR cao nhất hệ thống. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu trong quý 3 đạt 139.1%, thấp hơn đáng kể so với 164.5% của năm 2024 và 188.46% của năm 2023, do tác động từ nợ xấu tăng mạnh trong các quý trước. Tuy vậy, nếu nhìn theo chiều ngang từng quý trong năm, bộ đệm của nhóm lại đang tăng trở lại rõ rệt, từ mức 132% của quý 1 và 126% của quý 2 lên gần 140% trong quý 3. Sự phục hồi này xuất phát từ việc xử lý nợ xấu hiệu quả hơn khi tốc độ tăng nợ xấu đã chậm lại trong kỳ, đồng thời số dư dự phòng chung tiếp tục được củng cố với mức tăng 16-17% so với cùng kỳ.
Ở khối ngân hàng tư nhân, diễn biến tương đối tích cực. Nhóm ngân hàng bán lẻ ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng từ 61.84% lên 64.4%, nhờ nợ xấu chỉ tăng 8.5% so với cùng kỳ - mức thấp nhất kể từ đầu năm 2022. Đây là tín hiệu cho thấy áp lực chất lượng tài sản của nhóm đang dần hạ nhiệt.
Nhóm ngân hàng khác đạt tỷ lệ bao phủ khoảng 41.87%, mức cao nhất trong ba năm gần đây, phản ánh nỗ lực củng cố dự phòng sau giai đoạn căng thẳng từ năm 2023. Dù vậy, nhóm này vẫn còn cách khá xa mức trung bình 65% trước đại dịch và cần tiếp tục tăng cường dự phòng để tiệm cận ngưỡng an toàn trước đây.
Ngược lại, nhóm ngân hàng bán buôn ghi nhận xu hướng kém khả quan hơn. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ 69.54% của cùng kỳ xuống 65.7%, dù chi phí dự phòng trong quý 2 và quý 3 đã được đẩy mạnh, tăng hơn 50% YoY. Nguyên nhân chính là quy mô nợ xấu của nhóm tăng tới 25% YoY, khiến nỗ lực gia tăng dự phòng chưa đủ để bù đắp áp lực chất lượng tài sản. Diễn biến này cho thấy phân hóa rõ nét trong hệ thống, khi một số nhóm ngân hàng đã bước vào giai đoạn phục hồi bộ đệm, trong khi nhóm bán buôn cần đẩy mạnh hơn hiệu quả quản trị nợ xấu.
Diễn biến mức bao phủ nợ xấu của từng ngân hàng
Diễn biến quý 3 cho thấy sự phân hóa rõ rệt khi chỉ khoảng một nửa số ngân hàng cải thiện được tỷ lệ bao phủ nợ xấu, trong khi phần còn lại đi xuống so với cùng kỳ.
Ở nhóm quốc doanh, VCB tiếp tục dẫn đầu hệ thống với tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức 201.86%. Việc đẩy mạnh trích lập chi phí dự phòng của VCB trong kỳ (+138.2% YoY) cho thấy những nỗ lực tái cơ cấu lại bộ đệm dự phòng sau giai đoạn giảm mạnh trong những năm qua để duy trì mức lợi nhuận khi NIM sụt giảm mạnh.
BID cũng ghi nhận mức giảm mạnh của bộ đệm, từ 115.73% xuống 94.53%, phần lớn do nợ nhóm 5 tăng đột biến hơn 45% so với đầu năm. Điều này buộc BID phải tăng tốc trích lập trong hai quý gần đây để bù đắp áp lực rủi ro gia tăng.
Ngược lại, CTG cải thiện đáng kể tỷ lệ bao phủ nợ xấu từ 153.01% lên 176.48%, nhờ quy mô nợ xấu giảm so với cùng kỳ và so với quý trước. Với số dư dự phòng tích lũy trước đó và tỷ lệ nợ xấu duy trì ổn định giúp CTG nâng bộ đệm tổng thể, đặc biệt là phần dự phòng chung.
Nhóm ngân hàng bán lẻ chứng kiến sự cải thiện rõ rệt về tỷ lệ bao phủ nợ xấu, thu hẹp khoảng cách với nhóm bán buôn trong năm nay. Đáng chú ý là STB, tỷ lệ LLR tăng vọt lên 93.26% trong quý 3, từ 75% của quý trước, chủ yếu nhờ bổ sung mạnh vào dự phòng cụ thể. Điều này diễn ra trong bối cảnh nợ xấu của STB tiếp tục tăng lên 2.75%, cao hơn mức 2.5% của quý 2 và cùng kỳ, trong khi nợ nhóm 5 chiếm gần 70% tổng nợ xấu, tạo áp lực buộc ngân hàng phải củng cố dự phòng.
ACB, TPB và VPB cũng cải thiện tỷ lệ bao phủ, ghi nhận lần lượt 84.02%, 61.22% và 55.05% trong quý 3. Ngược lại, VIB giảm gần 8% so với cùng kỳ, do mức trích lập tương đương cùng kỳ trong khi quy mô nợ xấu tăng nhẹ, khiến bộ đệm chung bị mỏng đi tương đối.
Diễn biến tỷ lệ bao phủ nợ xấu từng ngân hàng
Đối với nhóm ngân hàng bán buôn, xu hướng suy giảm tỷ lệ bao phủ nợ xấu nhìn chung diễn ra phổ biến. TCB và MBB là hai ngoại lệ hiếm hoi, duy trì được bộ đệm tương đối tốt với tỷ lệ bao phủ lần lượt 119.24% và 79.21%. Bên cạnh việc đáp ứng trích lập dự phòng cụ thể theo quy định, cả hai ngân hàng đều tăng mạnh phần dự phòng chung, trên 20% so với cùng kỳ, cho thấy chiến lược củng cố bộ đệm thận trọng hơn.
Ngược lại, SSB và MSB chứng kiến mức giảm khoảng 9% so với cùng kỳ, trong bối cảnh chi phí dự phòng đi xuống trong khi tổng nợ xấu tăng nhẹ. Đáng chú ý nhất là HDB, nơi tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm mạnh từ 65.87% xuống 43.37% trong quý 3. Sự suy giảm sâu này phản ánh sức ép đáng kể từ phía rủi ro tín dụng, khi nợ xấu lũy kế 9/2025 của HDB tăng tới 66%, vượt xa tốc độ bổ sung dự phòng.
Ở nhóm ngân hàng khác, BAB tiếp tục là ngân hàng nổi bật nhất về chất lượng bộ đệm, duy trì tỷ lệ bao phủ trên 100%, đạt 108.37% trong quý 3. Đây cũng là ngân hàng có nợ xấu thấp nhất nhóm, khi quy mô nợ xấu chỉ tăng khoảng 5% từ đầu năm trong khi số dư dự phòng tăng 16.41%, cho thấy chiến lược trích lập chủ động.
VBB và BVB cũng ghi nhận sự cải thiện rõ rệt, đạt lần lượt 49.95% và 47.17%. Dù chi phí dự phòng không tăng mạnh, hai ngân hàng vẫn mở rộng được bộ đệm nhờ kiểm soát tốt tốc độ tăng nợ xấu, qua đó giảm áp lực trích lập.
Ở chiều ngược lại, VAB và EIB giảm khoảng 5% so với cùng kỳ, chủ yếu do nợ xấu tăng nhanh hơn trong quý 3 trong khi mức tăng dự phòng lại hạn chế, khiến tỷ lệ bao phủ bị thu hẹp đáng kể.
Tổng thể, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng trong quý 3 cho thấy xu hướng cải thiện, chủ yếu nhờ tốc độ tăng trưởng nợ xấu đã hạ nhiệt đáng kể và nhiều ngân hàng tiếp tục bổ sung đều đặn phần dự phòng chung. Tuy nhiên, sự cải thiện này không mang tính đồng đều, khi vẫn có những ngân hàng ghi nhận tỷ lệ bao phủ suy giảm do hiệu quả kiểm soát nợ xấu chưa thực sự rõ nét.
Lê Hoài Ân, CFA
fili - 07:00:00 21/11/2025


Quý 3/2025 đánh dấu một cột mốc lịch sử khi VN-Index vượt đỉnh, trong đó nhóm ngân hàng đã đóng vai trò dẫn dắt không thể thay thế. Tuy nhiên, điều thú vị là chiều ngược lại, chính sự sôi động của thị trường chứng khoán cũng tạo ra cú hích mạnh mẽ cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, đặc biệt nhóm sở hữu các công ty chứng khoán.
Nhóm ngân hàng – “động cơ” kéo VN-Index lên đỉnh lịch sử
Quý 3/2025 chứng kiến sự bùng nổ của thị trường chứng khoán Việt Nam, khi VN-Index liên tục vượt các mốc tâm lý quan trọng. Trong quá trình này, nhóm ngân hàng — vốn chiếm tỷ trọng lớn trong rổ chỉ số — đã đóng vai trò then chốt.
Dù thị trường đang trải qua giai đoạn hạ nhiệt nhanh từ đỉnh thời đại mới, thống kê tới hết phiên 18/11 cho thấy vẫn đang có 12/27 mã ngân hàng đang chiến thắng VN-Index, tương đương đương tỷ lệ 44.44%.
Đặc biệt, vẫn còn một số cái tên tăng trưởng hơn 2 lần với đầu năm — tiêu biểu như KLB (+118.5%), SHB (+109.6%) và ABB (+102.4%) — cho thấy dòng tiền ở những mã tăng mạnh nhất ngành ngân hàng vẫn chưa hoàn toàn rút ra.
Trong đó, SHB là cái tên thành công nhất. Không chỉ tăng giá mạnh, SHB còn là mã có thanh khoản cao nhất ngành, đóng góp lớn vào tổng thanh khoản thị trường.
Cùng với đó, MBB (+44.7%), VPB (+54.1%), TCB (+47.2%) cũng là những trường hợp thành công khi duy trì khớp lệnh 20 phiên gần nhất bình quân trên 10 triệu cổ phiếu/phiên.
Phần lớn cổ phiếu ngân hàng đã bước vào trạng thái điều chỉnh hoặc thị trường “con gấu”, phản ánh hoạt động chốt lời mạnh sau nhịp tăng theo hiệu ứng nâng hạng thị trường. Tuy nhiên, hai mã LPB và ABB là hiếm hoi giữ mức điều chỉnh dưới 10% so với đỉnh năm.
Theo ghi nhận về xu hướng dài hạn, nhóm ngân hàng vẫn duy trì trên 80% số mã trong trạng thái tăng kéo dài từ tháng 7/2025 đến nay, tức gần 4 tháng liên tiếp.
Độ rộng của các cổ phiếu Ngân hàng vẫn ghi nhận trên 80% các mã có xu hướng tăng dài hạn. (Tính đến hết phiên giao dịch 18/11)
Đây là mức độ bền vững mà thị trường đã không còn thấy lại kể từ thời kỳ bùng nổ COVID-19 giai đoạn 2020–2022, khi dòng tiền mang tính đầu cơ lẫn dài hạn ồ ạt vào cổ phiếu ngành ngân hàng.
Các ngân hàng sở hữu CTCK ghi nhận tác động của thị trường vào hoạt động
Nếu như ngân hàng đã giúp thị trường chứng khoán lập đỉnh, thì chiều ngược lại, chính thị trường chứng khoán cũng đang đóng góp đáng kể vào kết quả kinh doanh của các ngân hàng trong năm 2025.
Đặc biệt với các công ty chứng khoán thuộc sở hữu ngân hàng. Với sự bùng nổ mạnh mẽ của thị trường, hoạt động môi giới, cho vay margin và tự doanh đều ghi nhận những số liệu ấn tượng.
Theo SSI Research, thu nhập từ chứng khoán kinh doanh và đầu tư của các ngân hàng trong quý 3/2025 tăng tới 33 lần so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng thu nhập ngoài lãi toàn ngành. Qua đó, cho thấy thị trường chứng khoán đã trở thành nguồn lợi nhuận bổ sung cực kỳ quan trọng.
Các ngân hàng như ACB, TCB và VPB là những cái tên hưởng lợi lớn từ nguồn thu tại công ty chứng khoán trực thuộc như ACBS, TCBS và VBPankS.
Nhờ đó, thu nhập ngoài lãi tăng 21% so với cùng kỳ, góp phần giảm áp lực từ việc NIM đang thu hẹp và chi phí vốn tăng.
Các ngân hàng trong phạm vi nghiên cứu của SSI đạt 74.9 nghìn tỷ đồng lợi nhuận trước thuế (LNTT) trong quý 3/2025, tăng 23% so với cùng kỳ và gần như đi ngang so với quý liền trước.
Lũy kế 9 tháng năm 2025, LNTT các ngân hàng được theo dõi đạt 216.4 nghìn tỷ đồng, tăng 16.3% so với cùng kỳ.
Nhóm ngân hàng quốc doanh tăng trưởng 18%, trong khi nhóm ngân hàng tư nhân đạt 15%.
SSI kỳ vọng tăng trưởng lợi nhuận sẽ chậm lại trong quý 4/2025 do nền cao, nhưng các ngân hàng như TCB, VPB, HDB vẫn sẽ dẫn dắt nhờ tín dụng mở rộng tích cực và biên lợi nhuận ổn định.
Sau khi đạt đỉnh vào tháng 8/2025, Chứng khoán SSI cho biết hệ số P/B trượt trung bình của nhóm được theo dõi đã giảm 16.4% xuống 1.53x, thấp hơn mức trung bình 5 năm (1.65x). P/B dự phóng 2026 chỉ còn 1.28x, trong khi lợi nhuận dự kiến tăng 18%.
Quân Mai
FILI - 12:00:00 19/11/2025

Bức tranh tổng thể hiện tại cho thấy thanh khoản hệ thống vẫn đang ổn định. Dù vậy, sự thận trọng trong điều hành là vô cùng cần thiết ở thời điểm này để duy trì biên độ an toàn tài chính và quan trọng hơn là giữ vững niềm tin của thị trường và người gửi tiền.
Tín dụng tăng mạnh hơn huy động
Dữ liệu từ VietstockFinance cho thấy, tính đến 30/09/2025, tổng dư nợ tại 28 ngân hàng trong hệ thống là hơn 13.68 triệu tỷ đồng, tăng 15% so với đầu năm.
Trong đó, NCB (NVB) tăng trưởng tín dụng mạnh nhất (+33%), tiếp sau đó là VPBank (VPB, +29%), Techcombank (TCB, +21%), MB (MBB, +20%) và TPBank (TPB, +18%), Nam A Bank (NAB, +18%)… Saigonbank (SGB) là ngân hàng duy nhất tăng trưởng tín dụng âm với mức -6%.
Tổng lượng tiền gửi khách hàng tại 28 ngân hàng là hơn 12.33 triệu tỷ đồng, tăng 10% so với đầu năm.
Tất cả ngân hàng trong hệ thống đều tăng trưởng tiền gửi so với đầu năm. Trong đó, ABB là ngân hàng thu hút lượng tiền gửi mạnh nhất (+31%), kế đó là NVB (+24%), NAB (+22%), VPB (+21%) và MSB (+19%).
Cho vay khách hàng và tiền gửi khách hàng tính đến 30/09/2025 (Đvt: Tỷ đồng)Nguồn: VietstockFinance
Tỷ lệ LDR tăng trở lại
Tín dụng tăng 15% trong khi huy động tăng 10%, khiến tỷ lệ cho vay trên huy động LDR (Loan to Deposit Ratio) tại thời điểm cuối quý 3 của các ngân hàng tăng trưởng trở lại. Tỷ lệ LDR bình quân của 28 ngân hàng vào cuối quý 3 là 93.51%, tăng mạnh so với mức 91.96% cuối quý 2 và cao hơn cả mức 92.58% của đầu năm.
Chỉ có 9/29 ngân hàng có tỷ lệ LDR giảm so với đầu năm, giảm mạnh so với 16 ngân hàng thời điểm cuối quý 2, cho thấy các ngân hàng đã tăng trưởng tín dụng mạnh hơn.
Tính đến 30/09/2025, có 7 ngân hàng đạt tỷ lệ LDR dưới 85%. Có 4 ngân hàng đưa tỷ lệ này vượt mức 100%, gồm: VPB (129.55%), VIB(111.24%), SeABank (SSB, 110.34%) và VietinBank (CTG, 101.68%).
Tỷ lệ LDR của các ngân hàng tính đến 30/09/2025Nguồn: VietstockFinance
Áp lực lên thanh khoản
PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân - Giảng viên cấp cao, Đại học Kinh tế TPHCM nhận định, tỷ lệ LDR quý 3 đã tăng lên so với cuối quý 2 và cả thời điểm đầu năm, có thể đang gây áp lực lên thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Không chỉ gây áp lực, đây còn là lý do trực tiếp và căn bản nhất lý giải cho việc lãi suất huy động đã tăng trở lại trong thời gian gần đây, dù trước đó đã giảm sâu.
Chúng ta cần hiểu rõ bản chất của chỉ số LDR. Tỷ lệ này đo lường mức độ mà ngân hàng dùng vốn huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế để cho vay. Khi tỷ lệ LDR tăng lên, điều đó có nghĩa là tốc độ tăng trưởng tín dụng đang cao hơn tốc độ tăng trưởng huy động vốn.
Việc các ngân hàng cho vay nhiều hơn chắc chắn sẽ gây áp lực lên dự trữ thanh khoản. Tuy nhiên, áp lực lớn nhất không chỉ đến từ rủi ro thanh khoản nội tại mà còn đến từ quy định pháp lý.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định mức trần LDR (85% đối với các ngân hàng thương mại) như một trong những chỉ số an toàn hoạt động. Khi ngân hàng cho vay nhiều, khiến tỷ lệ LDR tiến sát ngưỡng trần quy định, có thể sẽ phải giảm tốc độ cho vay (điều này không ngân hàng nào mong muốn vì làm giảm lợi nhuận), hoặc phải tăng cường huy động vốn vào để cân đối lại tỷ lệ.
Để tăng huy động, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, công cụ nhanh và hiệu quả nhất chính là tăng lãi suất tiền gửi để thu hút dòng tiền nhàn rỗi từ người dân và doanh nghiệp. Do đó, việc LDR tăng cao đã tạo ra áp lực và buộc các ngân hàng phải tham gia vào cuộc đua tăng lãi suất huy động. Động thái này vừa giúp các ngân hàng có thêm vốn để cho vay, đồng thời vẫn đảm bảo tuân thủ các hệ số an toàn vốn và thanh khoản theo quy định.
Ông Nguyễn Quang Huy - CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường đại học Nguyễn Trãi cho rằng, tỷ lệ LDR tăng trở lại là tín hiệu của phục hồi tín dụng, nhưng đồng thời cũng là lời nhắc nhở về yêu cầu phải quản trị thanh khoản chặt chẽ hơn.
Con số LDR tăng từ 91.96% vào cuối quý 2 lên 93.51% vào cuối quý 3 là minh chứng cho thấy "vòng quay vốn tín dụng đã thực sự khởi động lại".
Trong giai đoạn trước, các ngân hàng có thể đã huy động được vốn nhưng lại gặp khó khăn trong việc cho vay (tín dụng tăng trưởng chậm), khiến vốn bị "tồn đọng". Tỷ lệ LDR tăng lên cho thấy lượng vốn này đã bắt đầu được đưa ra nền kinh tế hiệu quả hơn. Sau thời gian dài, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và người dân đang phục hồi.
Tuy nhiên, ông Huy cũng đặc biệt nhấn mạnh đến mặt thách thức. Khi tỷ lệ LDR tiến gần đến mốc 95%, áp lực về thanh khoản chắc chắn sẽ bắt đầu xuất hiện. Có thể sẽ không dàn đều ra toàn hệ thống ngay lập tức, mà mang tính "cục bộ". Một số ngân hàng thương mại, đặc biệt là những ngân hàng đã đẩy mạnh cho vay nhanh trong quý vừa qua, sẽ bắt đầu cảm thấy "căng" về nguồn vốn và phải điều chỉnh để cân đối lại.
Khi áp lực này xuất hiện, các ngân hàng sẽ buộc phải triển khai các biện pháp nghiệp vụ để đảm bảo an toàn thanh khoản và tuân thủ quy định.
Tăng cường huy động là giải pháp nền tảng nhất. Các ngân hàng sẽ phải đẩy mạnh huy động vốn, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn (vốn có tính ổn định cao) để cân đối lại với các khoản cho vay dài hạn, thường dẫn đến việc tăng lãi suất huy động.
Các ngân hàng cũng sẽ tích cực hơn trong việc phát hành giấy tờ có giá (chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu...) để huy động vốn từ thị trường cấp 2.
Trong ngắn hạn, các ngân hàng sẽ phải tận dụng linh hoạt kênh liên ngân hàng (vay mượn lẫn nhau) và các công cụ hỗ trợ từ thị trường mở (OMO) của NHNN để bù đắp các thiếu hụt thanh khoản tức thời.
Theo ông Huy, bức tranh tổng thể hiện tại cho thấy thanh khoản hệ thống vẫn đang ổn định. Dù vậy, sự thận trọng trong điều hành là vô cùng cần thiết ở thời điểm này để duy trì biên độ an toàn tài chính, và quan trọng hơn là giữ vững niềm tin của thị trường và người gửi tiền.
Cát Lam
FILI - 10:00:00 19/11/2025

Ngày 18/11, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank, HOSE: CTG) công bố thông tin chào bán cổ phiếu của CTCP Cảng Sài Gòn (Saigon Port, UPCoM: SGP).
UBCK Nhà nước đã cấp giấy chứng nhận đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng cho thương vụ này vào ngày 10/11.
Theo đó, VietinBank sẽ chào bán hơn 19.6 triệu cp SGP thông qua hình thức đấu giá công khai thông thường tại Sở GDCK Hà Nội (HNX). Cuộc đấu giá sẽ được tổ chức vào sáng ngày 22/12 và phiếu tham dự cần nộp trước 16h ngày 18/12.
Ước tính với mức giá khởi điểm 29,208 đồng/cp, khối cổ phần mà VietinBank sở hữu tại Saigon Port trị giá xấp xỉ 573 tỷ đồng.
Tính đến kết phiên 18/11, cổ phiếu SGP có giá 26,700 đồng/cp, giảm 5.3% so với đầu năm. Thanh khoản bình quân trong quý gần nhất ở mức 85,497 cp/ngày, do tỷ lệ sở hữu cổ phần tại Doanh nghiệp tương đối cô đặc.
Tại Saigon Port, VietinBank đang là cổ đông lớn thứ 3, xếp sau Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (VIMC) với 65.5% cổ phần và Công ty TNHH Phát triển Dịch vụ Thương mại Toàn Thắng với 9.8% cổ phần. Ngoài ra, thêm một ngân hàng cũng nắm giữ lượng vốn đáng kể tại nhà quản lý cảng là VPBank với 7.4% cổ phần.
Diễn biến giao dịch cổ phiếu SGP trong năm 2025
Thừa Vân
FILI - 16:03:10 18/11/2025


HĐQT CTCP Chứng khoán Vietcap vừa ra Nghị quyết triển khai chào bán 127.5 triệu cp riêng lẻ để tăng vốn lên 8,501 tỷ đồng. Danh sách tham gia ghi nhận 69 nhà đầu tư, xuất hiện nhiều tổ chức và cá nhân muốn mua hàng chục triệu cổ phiếu.
Theo kế hoạch, Vietcap sẽ chào bán lượng cổ phiếu kể trên trong năm 2025 và quý 1/2026. Với 127.5 triệu cp, tương đương 17.6446% số lượng cổ phiếu đang lưu hành, Công ty sẽ tăng vốn điều lệ từ 7,226 tỷ đồng lên 8,501 tỷ đồng.
Giá chào bán được công bố là 31,000 đồng/cp, thấp hơn 13% so với thị giá đóng cửa phiên 14/11 là 35,750 đồng/cp, được Vietcap cho biết có xét đến tình hình thị trường chung và các yếu tố khác ảnh hưởng đến sự thành công của đợt chào bán cũng như tạo điều kiện cho nhà đầu tư tham gia đóng góp vào quá trình phát triển của Công ty.
Như vậy, Công ty dự kiến thu về gần 3,923 tỷ đồng, giải ngân toàn bộ vào năm 2026, trong đó 80% dùng để bổ sung vốn cho hoạt động margin và 20% dành cho tự doanh.
Kế hoạch sử dụng vốn của VietcapNguồn: Vietcap
Theo danh sách được Vietcap công bố, dự kiến có 69 nhà đầu tư tham gia mua cổ phiếu riêng lẻ, trong đó 26 nhà đầu tư dự kiến trở thành cổ đông mới sau chào bán. Danh sách cũng gây chú ý với sự xuất hiện của nhiều tổ chức lớn đến từ cả trong lẫn ngoài nước.
Trong đó, Darasol Investments Limited được ghi nhận mua nhiều cổ phiếu nhất với 12.2 triệu cp, gần 10% lượng chào bán, tương ứng bỏ ra số tiền hơn 378 tỷ đồng. Sau giao dịch, tổ chức nước ngoài này sẽ nâng sở hữu lên 1.44%, từ chỗ không nắm giữ cổ phiếu nào.
Nhóm Dragon Capital tham gia mua 10 triệu cp thông qua các quỹ thành viên, gồm Samsung Vietnam Securities Master Investment Trust [Equity], Vietnam Enterprise Investments Limited, Hanoi Investments Holdings Limited và DC Developing Markets Strategies Public Limited Company. Nhóm quỹ này cũng sẽ nâng sở hữu tại Vietcap từ 3.1% lên 3.83%.
Các hãng bảo hiểm cũng được ghi nhận góp mặt trong chào bán, với Công ty TNHH Manulife (Việt Nam), Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam cùng thành viên trong hệ sinh thái là Eastspring Investments cũng mua vào hàng triệu cổ phiếu.
Các tổ chức còn lại cũng được ghi nhận trong danh sách gồm Công ty TNHH MTV Quản lý Quỹ ACB (ACB Capital), Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Tăng trưởng Red Three (quỹ thành viên của Red Capital), CTCP Thực phẩm G.C (UPCoM: GCF), Nanjia Capital Master Fund Limited, ACM Global Fund VCC.
Đối với nhóm nhà đầu tư cá nhân, ông Nguyễn Tấn Minh và ông Lê Danh Tài được ghi nhận tham gia mua nhiều nhất với 11.5 triệu cp, tương ứng số tiền mỗi người cần bỏ ra khoảng 357 tỷ đồng. Qua đó, ông Minh và ông Tài sẽ lần lượt nâng sở hữu lên 2.07% và 2.12% vốn.
Chia sẻ tại ĐHĐCĐ bất thường vừa diễn ra vào ngày 07/11, các lãnh đạo Vietcap nhấn mạnh việc Công ty cần sớm nâng quy mô vốn điều lệ nhằm tăng cường nguồn lực tài chính phục vụ hoạt động kinh doanh hiện hữu, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời củng cố nền tảng phát triển bền vững và dài hạn.
Nói về triển vọng kết quả kinh doanh năm 2025, ông Đinh Quang Hoàn - Phó Chủ tịch HĐQT cho biết kế hoạch lợi nhuận trước thuế đưa ra vào đầu năm là 1,400 tỷ đồng. Với tình hình thị trường thuận lợi, Vietcap dự kiến sẽ vượt kế hoạch đã đặt ra khoảng 10% đến 20%.
Bên cạnh phương án tăng vốn, Công ty cũng thông qua phương án thành lập công ty con tại Singapore. Vốn đầu tư là 29 triệu USD (tương đương 725 tỷ đồng). Công ty này có hoạt động chính là tự doanh đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Ngoài ra, công ty cũng cung cấp nghiệp vụ/dịch vụ kinh doanh chứng khoán theo ngành nghề và quy định của pháp luật tại từng thời điểm. Ban lãnh đạo cho biết mục đích chính của việc đầu tư nước ngoài là để hợp tác đối với các công ty trong khu vực ASEAN.
Huy Khải
FILI - 18:18:53 14/11/2025
Ngân hàng nào đang niêm yết mức lãi suất trên 6%
Cake by VPBank cùng nhiều ngân hàng nhỏ và ngân hàng số đang đẩy mạnh cuộc đua hút vốn với lãi suất tiền gửi dài hạn trên 6%/năm.
Cụ thể, Cake by VPBank áp dụng 6,3%/năm cho kỳ hạn 6-8 tháng, 6,4%/năm cho 9-11 tháng và 6,5%/năm cho 12-36 tháng. Bac A Bank, Viet A Bank, HDBank và BVBank cũng niêm yết mức lãi suất tương tự, tạo cơ hội hấp dẫn cho khách hàng cá nhân nhờ điều kiện gửi tối thiểu không quá khắt khe.
Vietnam+ (VietnamPlus)
Lãi suất tiết kiệm rục rịch tăng: Nguyên nhân từ đâu?
Bước sang tháng 11, mặt bằng lãi suất huy động tại Việt Nam bắt đầu nhích lên, đặc biệt ở các ngân hàng thương mại tư nhân và quy mô nhỏ.
Nhiều ngân hàng như KienlongBank, LPBank, Bảo Việt Bank, PVcomBank, Techcombank hay VPBank đồng loạt tăng lãi suất gửi tiết kiệm từ 0,2–0,5%/năm, trong khi các "ông lớn" quốc doanh vẫn giữ nguyên mức cũ.
Nguyên nhân chính là tín dụng tăng mạnh (tăng 13,4% đến cuối tháng 9) trong khi huy động chỉ tăng 9,7%, gây áp lực thanh khoản và buộc các ngân hàng phải điều chỉnh lãi suất để cân đối nguồn vốn.
Dù tăng, mặt bằng lãi suất nhìn chung vẫn ổn định và dự kiến sẽ tiếp tục nhích nhẹ trong giai đoạn cuối năm.
Znews.vn
Label putih
Data API
Web Plug-ins
Pembuat Poster
Program Afiliasi
Berdagang Instrumen Keuangan Seperti Saham, Mata Uang, Komoditas, Kontrak Berjangka, Obligasi, Dana, Atau Mata Uang Kripto Adalah Perilaku Berisiko Tinggi, Termasuk Kehilangan Sebagian Atau Seluruh Jumlah Investasi Anda, Sehingga Perdagangan Tidak Cocok Untuk Semua Investor.
Anda Harus Melakukan Uji Tuntas Anda Sendiri, Menggunakan Penilaian Anda Sendiri, Dan Berkonsultasi Dengan Penasihat Yang Memenuhi Syarat Saat Membuat Keputusan Keuangan Apa Pun. Konten Situs Web Ini Tidak Ditujukan Kepada Anda, Situasi Keuangan Atau Kebutuhan Anda Juga Tidak Diperhitungkan. Informasi Yang Terdapat Di Situs Web Ini Belum Tentu Tersedia Secara Waktu Nyata, Juga Belum Tentu Akurat. Setiap Pesanan Atau Keputusan Keuangan Lainnya Yang Anda Buat Sepenuhnya Menjadi Tanggung Jawab Anda Dan Anda Tidak Boleh Bergantung Pada Informasi Apa Pun Yang Disediakan Melalui Situs Web. Kami Tidak Memberikan Jaminan Apa Pun Untuk Informasi Apa Pun Di Situs Web Dan Tidak Bertanggung Jawab Atas Kerugian Transaksi Apa Pun Yang Mungkin Timbul Dari Penggunaan Informasi Apa Pun Di Situs Web.
Dilarang Menggunakan, Menyimpan, Menggandakan, Menampilkan, Memodifikasi, Menyebarluaskan Atau Mendistribusikan Data Yang Terdapat Dalam Situs Web Ini Tanpa Izin Tertulis Dari Situs Web Ini. Semua Hak Kekayaan Intelektual Dilindungi Oleh Pemasok Dan Bursa Yang Menyediakan Data Yang Terdapat Di Situs Web Ini.
Tidak Masuk
Masuk untuk mengakses lebih banyak fitur

Anggota FastBull
Belum
Pembelian
Masuk
Daftar