Котировки
Новости
Анализ
Пользователь
24/7
Экономический Календарь
Обучение
Данные
- Имена
- Последний
- Пред.












Сообщество аккаунт
Сигнальные аккаунты для участников
Все сигнальные аккаунты
Все конкурсы



США Месячный рост среднего почасового заработка (Сезонно скорректированный) (Окт)А:--
П: --
П: --
США Годовой рост среднего почасового заработка (Окт)А:--
П: --
П: --
США Розничные продажи (Окт)А:--
П: --
П: --
США Ежемесячный рост базовых розничных продаж (Окт)А:--
П: --
США Базовые розничные продажи (Окт)А:--
П: --
П: --
США Месячный рост розничных продаж (Окт)А:--
П: --
США Частная занятость вне сельского хозяйства (сезонно скорректированная) (Окт)А:--
П: --
США Среднее количество рабочих часов в неделю (Сезонно скорректированное) (Окт)А:--
П: --
П: --
США Уровень участия в занятости (Сезонно скорректированный) (Нояб)А:--
П: --
П: --
США Годовой рост розничных продаж (Окт)А:--
П: --
П: --
США Занятость в производственном секторе (сезонно скорректированная) (Окт)А:--
П: --
США Государственная занятость (Нояб)А:--
П: --
П: --
США Еженедельные розничные продажи по данным Redbook YoY (год к году)А:--
П: --
П: --
США Предварительный индекс деловой активности в производстве IHS Markit (сезонно скорректированный) (Дек)А:--
П: --
П: --
США Предварительный индекс деловой активности IHS Markit (сезонно скорректированный) (Дек)А:--
П: --
П: --
США PMI по услугам IHS Markit предварительный (сезонно скорректированный) (Дек)А:--
П: --
П: --
США Месячный рост коммерческих запасов (Сент)А:--
П: --
П: --
Выступление губернатора Банка Канады Маклема
Аргентина ВВП год к году (постоянные цены) (3 квартал)А:--
П: --
П: --
США Еженедельные запасы бензина APIА:--
П: --
П: --
США Еженедельные запасы сырой нефти API в КушингеА:--
П: --
П: --
США Еженедельные запасы нефтепродуктов APIА:--
П: --
П: --
США Еженедельные запасы сырой нефти APIА:--
П: --
П: --
Австралия Месячный рост ведущего индикатора Westpac (Нояб)А:--
П: --
Япония Торговый баланс (Без сезонной корректировки) (Нояб)А:--
П: --
П: --
Япония Товарный баланс (Сезонно скорректированный) (Нояб)А:--
П: --
П: --
Япония Годовой рост импорта (Нояб)А:--
П: --
П: --
Япония Экспорт (год к году) (Нояб)А:--
П: --
П: --
Япония Годовой рост базовых заказов на машиностроительную продукцию (Окт)А:--
П: --
П: --
Япония Ежемесячный рост базовых заказов на машиностроительную продукцию (Окт)А:--
П: --
П: --
Великобритания Ежемесячный рост основного индекса потребительских цен (Нояб)--
П: --
П: --
Великобритания Ожидания уровня инфляции--
П: --
П: --
Великобритания Годовой рост индекса базовых розничных цен (Нояб)--
П: --
П: --
Великобритания Годовой рост основного индекса потребительских цен (Нояб)--
П: --
П: --
Великобритания Месячный рост цен производства (Не сезонно скорректированный) (Нояб)--
П: --
П: --
Великобритания Годовой рост цен производства (Не сезонно скорректированный) (Нояб)--
П: --
П: --
Великобритания Годовой рост цен на вводимые товары (Не сезонно скорректированный) (Нояб)--
П: --
П: --
Великобритания ИПЦ год к году (Нояб)--
П: --
П: --
Великобритания Месячный индекс розничных цен (Нояб)--
П: --
П: --
Великобритания ИПЦ месяц к месяцу (Нояб)--
П: --
П: --
Великобритания Месячный рост цен на вводимые товары (Не сезонно скорректированный) (Нояб)--
П: --
П: --
Великобритания Годовой рост розничных цен (Нояб)--
П: --
П: --
Индонезия Ставка обратного РЕПО на 7 дней--
П: --
П: --
Индонезия Ставка по депозитам (Дек)--
П: --
П: --
Индонезия Ставка кредитования (Дек)--
П: --
П: --
Индонезия Займы (год к году) (Нояб)--
П: --
П: --
Южная Африка Годовой рост основного индекса потребительских цен (Нояб)--
П: --
П: --
Южная Африка ИПЦ год к году (Нояб)--
П: --
П: --
Германия Индекс ожиданий деловой среды IFO (Дек)--
П: --
П: --
Германия Индекс текущих условий дел IFO (Дек)--
П: --
П: --
Германия Индекс делового климата IFO (Дек)--
П: --
П: --
Еврозона Окончательный ежемесячный рост основного индекса потребительских цен (Нояб)--
П: --
П: --
Еврозона Годовой рост трудовых издержек (3 квартал)--
П: --
П: --
Еврозона Основной индекс потребительских цен, окончательные данные, год к году (Нояб)--
П: --
П: --
Еврозона Основной индекс потребительских цен, окончательные данные, месяц к месяцу (Нояб)А:--
П: --
П: --
Еврозона Окончательный годовой рост основного индекса потребительских цен (Нояб)--
П: --
П: --
Еврозона ИПЦ месяц к месяцу (за исключением продуктов питания и энергии) (Нояб)--
П: --
П: --
Еврозона ИПЦ год к году (за исключением табака) (Нояб)--
П: --
П: --
Еврозона Окончательный ИПЦ год к году (Нояб)--
П: --
П: --
Еврозона Окончательный ИПЦ месяц к месяцу (Нояб)--
П: --
П: --


Нет соответствующих данных
Последние мнения
Последние мнения
Актуальные темы
Лучшие обозреватели
Последнее Обновление
Белая этикетка
API данных
Веб-плагины
План агентства
Посмотреть все

Нет данных
CTCP VBIC Việt Nam chỉ mua thành công gần 80% lượng cổ phiếu TNW đăng ký, vì không chuẩn bị đủ nguồn.
Cụ thể, VBIC Việt Nam đăng ký mua 1 triệu cp của CTCP Nước sạch Thái Nguyên (UPCoM: TNW) trong giai đoạn 26/11-11/12/2025. Tuy nhiên, lượng mua thực tế chỉ đạt 795,100 cp, do chưa chuẩn bị đủ nguồn. Sau giao dịch, VBIC Việt Nam từ chỗ chưa phải cổ đông đã sở hữu 4.97% vốn điều lệ của Công ty.
Gần như cùng giai đoạn (25/11-10/12), Chủ tịch HĐQT Nguyễn Quang Mãi bán ra 990,000 cp TNW trên tổng số 1.4 triệu cp đăng ký bán, nguyên nhân không bán hết được đề cập do “cổ phiếu không có thanh khoản”. Sau giao dịch, ông Mãi hạ tỷ lệ sở hữu từ 10.05% về 3.86% và không còn là cổ đông lớn.
Trong giai đoạn trên, thị trường hầu như chỉ ghi nhận các giao dịch thỏa thuận liên quan đến lượng bán của ông Mãi. Như vậy, có thể ông Mãi đã sang tay một phần cổ phiếu đăng ký cho VBIC Việt Nam và một hoặc nhiều cổ đông khác chưa lộ diện; phần còn lại muốn bán khớp lệnh nhưng không có thanh khoản. Với giá trung bình 14,255 đồng/cp, ước tính VBIC Việt Nam đã chi gần 11.3 tỷ đồng, còn ông Mãi thu về khoảng 14.1 tỷ đồng.
Ông Mãi cũng chính là Chủ tịch HĐQT VBIC Việt Nam. Do vậy, dù giảm sở hữu trực tiếp, ảnh hưởng của ông Mãi tại TNW gần như không đổi, do Tập đoàn Quốc tế Đông Á (EAI) - doanh nghiệp ông giữ vai trò Thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc - đang nắm 41% vốn TNW. Cộng cả phần nắm giữ cá nhân và lượng chuyển sang VBIC Việt Nam, quyền chi phối gắn với ông vẫn ít nhất 48.5%.
Trong quá khứ, EAI từng muốn nâng quyền chi phối tại TNW lên 51% khi đề nghị chào mua thêm cổ phần vào năm 2019, nhưng kế hoạch này dừng lại do thay đổi định hướng sử dụng vốn. Còn VBIC Việt Nam gần đây cũng đẩy mạnh gom cổ phiếu ngành nước. Tháng 3 năm nay, Công ty mua thêm 790,000 cp STW (Cấp nước Sóc Trăng), nâng tỷ lệ nắm giữ lên gần 24%. Trước đó, ông Mãi có nhiều năm tham gia điều hành STW và mới rời cương vị Chủ tịch kiêm Phó Tổng Giám đốc vào tháng 5/2024.
Về kết quả kinh doanh, quý 3/2025, TNW báo doanh thu tăng 8%, nhưng lợi nhuận giảm 22% còn hơn 6 tỷ đồng. Dù vậy, lợi nhuận 9 tháng đầu năm đạt hơn 10 tỷ đồng, mức cao nhất của cùng kỳ trong 10 năm, nhờ doanh thu tăng lên 183 tỷ đồng và giá vốn gần như đi ngang. Công ty vẫn còn lỗ lũy kế gần 88 tỷ đồng trên vốn chủ sở hữu 213 tỷ đồng.
Hải Âu
FILI - 11:43:00 15/12/2025
Trong giai đoạn cuối tháng 11 và đầu tháng 12/2025, các cổ đông CTCP Cấp nước Sóc Trăng (Soctrangwaco, UPCoM: STW) đã thực hiện nhiều giao dịch đáng chú ý, dẫn đến thay đổi trong danh sách cổ đông lớn.
Trong 2 ngày 02/12 và 04/12, cổ đông lớn Nghiêm Thị Lệ Hằng bán ra tổng cộng 400 ngàn cp STW, với lý do cần rút tiền vào việc cá nhân, giảm sở hữu từ hơn 3 triệu cp (tỷ lệ 19.02%) xuống còn hơn 2.6 triệu cp (tỷ lệ 16.5%).
Giai đoạn 25/11-02/12, Thành viên BKS Nguyễn Minh Phương bán ra 164 ngàn cp nhằm giảm sở hữu tại Công ty, đưa số lượng nắm giữ từ hơn 801 ngàn cp (tỷ lệ 5.05%) xuống còn hơn 637 ngàn cp (tỷ lệ 4.02%), và không còn là cổ đông lớn. Đáng nói, ban đầu, ông Phương đăng ký bán 200 ngàn cp STW, nhưng chỉ thực hiện 82% kế hoạch với lý do cổ phiếu không có thanh khoản.
Ngày 01/12, cổ đông Nguyễn Quang Mãi mua vào 160 ngàn cp để nâng tỷ lệ sở hữu lên 1.009%, từ chỗ không nắm cổ phiếu nào. Tuy nhiên, ông Mãi là người đại diện pháp luật của CTCP VBIC Việt Nam - tổ chức đang nắm hơn 3.8 triệu cp STW (tỷ lệ 23.98%). Như vậy, nhóm cổ đông này đã nâng sở hữu lên gần 4 triệu cp (tỷ lệ 24.98%).
Quan sát thanh khoản cổ phiếu STW trong giai đoạn kể trên, dễ nhận ra 2 giao dịch với khối lượng 200 ngàn cp trong phiên 02/12 và 04/12 theo hình thức thỏa thuận, khả năng cao do bà Nghiêm Thị Lệ Hằng thực hiện. Giá trị 2 giao dịch đều ở mức 4.6 tỷ đồng, tương đương 23,000 đồng/cp.
Trước đó, 160 ngàn cp cũng được thỏa thuận trong phiên 01/12, khả năng được chuyển nhượng từ ông Nguyễn Minh Phương sang ông Nguyễn Quang Mãi. Với quy mô 3.68 tỷ đồng, giao dịch này cũng được thực hiện tại mức giá 23,000 đồng/cp.
Liên tiếp xuất hiện các giao dịch của cổ đông STWNguồn: STW, người viết tổng hợp
Sau liên tiếp các giao dịch, cơ cấu cổ đông STW ít nhiều ghi nhận sự thay đổi. Danh sách cổ đông lớn giảm từ 4 còn 3, gồm UBND tỉnh Sóc Trăng (nay thuộc TP. Cần Thơ) nắm 49% vốn, CTCP VBIC Việt Nam nắm 23.98% và bà Nghiêm Thị Lệ Hằng nắm 16.5%.
STW tiền thân là Nhà máy nước Sóc Trăng thành lập vào năm 1964 (gọi là Công ty Nhà máy nước Khánh Hưng); năm 1972 đổi tên thành Trung tâm Cấp thủy trực thuộc Quốc gia sản cấp Thủy cục; năm 1992 nâng lên thành Công ty nước tỉnh Sóc Trăng; tháng 1/2010 chuyển thành Công ty TNHH MTV Cấp nước Sóc Trăng; tháng 12/2017 chính thức hoạt động dưới hình thức CTCP.
Cổ phiếu STW lên sàn UPCoM từ tháng 7/2018. Tuy nhiên, với cơ cấu cổ đông cô đặc, cổ phiếu ngành nước này không để lại nhiều dấu ấn khi thanh khoản quá thấp, khối lượng giao dịch bình quân năm 2025 chỉ 36 cp/phiên, thị giá cũng giảm 18% từ đầu năm.
Cổ phiếu STW bất ngờ được giao dịch trở lại
Về tình hình kinh doanh, STW mang về gần 57 tỷ đồng doanh thu trong quý 3/2025, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước - giai đoạn có ghi nhận thu nhập khác từ dự án biến đổi khí hậu và dự án Water Worx giá trị hơn 5.5 tỷ đồng.
Công ty cũng chịu áp lực chi phí bán hàng tăng 11% do tăng chi phí sửa chữa, bảo dưỡng hệ thống cấp nước. Ngoài ra, chi phí khác tăng 23% do Công ty bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khai thác, sử dụng tài nguyên nước với số tiền hơn 3.2 tỷ đồng.
Dù vậy, nhờ có chi phí giá vốn giảm nhẹ 3%, chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 4%, đặc biệt chi phí thuế TNDN giảm đến 84% (từ gần 14 tỷ đồng còn hơn 2 tỷ đồng), Công ty đạt lãi ròng gần 5.5 tỷ đồng, tích cực đáng kể so với khoản lỗ hơn 600 triệu đồng cùng kỳ.
Theo Công ty, chi phí thuế giảm mạnh so với mức nền cao năm 2024 - giai đoạn thực hiện bổ sung thuế TNDN các năm 2021, 2022, 2023 tổng cộng gần 7 tỷ đồng theo quyết định của Chánh Thanh tra tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, lãi trước thuế quý 3/2025 cũng giảm đáng kể so với cùng kỳ, qua đó tỷ lệ chi phí thuế cũng giảm mạnh.
Tuy nhiên, lũy kế 9 tháng đầu năm, STW vẫn giảm 67% lãi ròng so với cùng kỳ, ghi nhận hơn 10 tỷ đồng.
Diễn biến lãi ròng theo quý trong những năm qua của STW
Huy Khải
FILI - 16:25:46 08/12/2025




Ngành nước trong quý 3 thể hiện hai sắc thái rõ rệt. Một số doanh nghiệp lập kỷ lục nhờ mở rộng và điều chỉnh giá bán, trong khi không ít đơn vị sụt giảm do sản lượng hạn chế và chi phí leo thang.
Sự đối lập này phản ánh khác biệt về thị trường từng địa phương và năng lực kiểm soát chi phí của mỗi công ty, kéo kết quả toàn ngành đi hai hướng.
Theo VietstockFinance, 42 doanh nghiệp nước sạch trên sàn đạt tổng doanh thu 8.6 ngàn tỷ đồng trong quý 3/2025, tăng 4.1% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận ròng vượt 1 ngàn tỷ đồng, tăng 19%, nhưng mức tăng không đồng đều.
Tổng lợi nhuận ròng quý 3 ngành nước tăng trưởng nhưng phân hóa mạnh
Miền Bắc và miền Trung dẫn nhịp tăng trưởng
Miền Bắc tiếp tục dẫn đầu đà tăng khi nhiều doanh nghiệp vượt đỉnh cũ.
Cấp nước Hải Phòng đạt doanh thu 370 tỷ đồng, tăng 5%; lợi nhuận 56 tỷ đồng, tăng 42%. NQN và BGW cũng nâng kết quả lên mặt bằng mới nhờ mở rộng mạng lưới và tăng giá bán.
Miền Trung ghi nhận bước nhảy mạnh về biên lợi nhuận. Cấp nước Đà Nẵng lãi 76 tỷ đồng, gần gấp 4 lần nhờ biên lãi gộp tăng lên 46%.
THN, BDW và DWC cũng cải thiện doanh thu và lợi nhuận khi nhu cầu tăng và giá nước được điều chỉnh.
Cấp nước Nghệ An gây chú ý khi lãi 18 tỷ đồng, gấp 20 lần, phần lớn đến từ thanh lý tài sản.
Khu vực miền Bắc và Trung báo lợi nhuận quý 3 tăng mạnh (Đvt: tỷ đồng)
Ở phía Nam, nhiều công ty cũng tích cực. Cấp nước Đồng Nai lãi 81 tỷ đồng trong quý 3, tăng 21%. Cấp nước Bà Rịa - Vũng Tàu lập đỉnh mới ở cả doanh thu lẫn lợi nhuận.
Tại Đồng bằng sông Cửu Long, Cấp thoát nước Bến Tre nâng biên lãi gộp lên 68.4% nhờ giá vốn giảm; đưa lợi nhuận lên 17 tỷ đồng, tăng 34%. Cấp nước Sóc Trăng cũng đảo chiều có lãi gần 5.5 tỷ đồng do kiểm soát thất thoát và cải thiện mạng lưới.
Hà Nội phân hóa, VAV lao dốc
Tại Hà Nội, sự tương phản rất rõ. VIWACO (UPCoM: VAV) lãi gần 30 tỷ đồng, chỉ bằng một nửa cùng kỳ dù doanh thu tăng nhẹ lên 278 tỷ đồng.
Giá mua nước từ VCW tăng liên tục kéo biên lợi nhuận gộp VAV xuống 18.7% từ mức 33.8%, khiến lãi ròng rơi xuống đáy 9 quý.
Ngược lại, Đầu tư Nước sạch Sông Đà (UPCoM: VCW) đảo chiều mạnh. Doanh thu tăng 76% lên 252 tỷ đồng; lãi 34 tỷ đồng so với mức lỗ gần 33 tỷ đồng năm trước. Biên lợi nhuận gộp lên tới 40.5%.
Nước sạch Số 2 Hà Nội (UPCoM: NS2) lãi 14 tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay nhờ mở rộng mạng lưới và giảm chi phí vận hành.
Thuận lợi của VCW là khó khăn của VAV
Cấp nước TPHCM vẫn hụt hơi
Tại TPHCM cũ, phần lớn doanh nghiệp chịu sức ép chi phí.
Những đơn vị như Nhà Bè, Bến Thành và Chợ Lớn đều gặp khó. Giá mua nước sỉ tăng và chi phí vận hành đội lên, cộng với sản lượng bán ra giảm, khiến lãi ròng tụt sâu.
Lợi nhuận Cấp nước Nhà Bè còn 3.1 tỷ đồng, giảm 61%; Cấp nước Bến Thành lùi 18%, còn 12 tỷ đồng; Cấp nước Chợ Lớn cũng giảm.
Riêng Cấp nước Gia Định là điểm sáng khi lãi 6 tỷ đồng, tăng 30%. Dù doanh thu đi ngang, giá vốn giảm và điều chỉnh giá bán giúp đơn vị này giữ hiệu quả.
Nhiều đơn vị cấp nước tại TPHCM cũ báo lãi giảm
Doanh thu và lợi nhuận trái chiều
Một số Công ty lập đỉnh doanh thu nhưng lợi nhuận đi xuống do chi phí đầu vào cao và sản lượng tiêu thụ hạn chế.
Cấp thoát nước Lâm Đồng lãi 22 tỷ đồng, giảm 15%. Trong khi Nước sạch Bắc Ninh B đạt doanh thu 81 tỷ đồng nhưng lợi nhuận chỉ còn 7.7 tỷ đồng, mức thấp nhất 2 năm.
Miền Tây cũng ghi nhận tình trạng tương tự tại CTW, VLW, TVW và CMW. Ở miền Trung, sản lượng yếu và sự cố tuyến ống khiến NQB và PWS giảm hiệu quả dù doanh thu vẫn cao.
Duy nhất Hạ tầng Nước Sài Gòn tiếp tục lỗ 6.2 tỷ đồng do chi phí lãi vay lớn.
Lợi nhuận TDM giảm sốc
Nhóm đầu ngành cũng phân hóa. Nước Thủ Dầu Một chỉ lãi 3.1 tỷ đồng, mất đến 95%. Doanh thu còn 64 tỷ đồng, giảm 40% do giảm đáng kể cung cấp nước sỉ cho BWE.
Ngược lại, Tổng công ty Nước - Môi trường Bình Dương duy trì tăng trưởng mạnh. Lợi nhuận 264 tỷ đồng, tăng 45%, gần bằng mức kỷ lục quý 2. Biên lãi gộp 55.6%, mức cao nhất từ trước đến nay.
Biên lợi nhuận gộp và lãi ròng của TDM lao dốc
M&A sôi động
Quý 3 và cả 9 tháng ghi nhận nhịp giao dịch cổ phần sôi động trong ngành nước, tâm điểm xoay quanh BWE và TDM.
BWE thoái 27.19% vốn tại Biwase - Long An cho TDM với giá 320 tỷ đồng; ghi nhận 67 tỷ đồng doanh thu tài chính, giảm sở hữu còn 71.3%. Đồng thời BWE nâng tỷ lệ tại VLW lên 33.6% với thương vụ 66 tỷ đồng; tăng sở hữu tại Biwase Cần Thơ lên 67.8% qua loạt giao dịch 38 tỷ đồng và nâng nắm giữ ở Biwase Quảng Bình lên 43.6% với giá 61 tỷ đồng. Trước đó, “ông lớn” này cũng đã hoàn tất mua 43% vốn Đầu tư Nước Tân Hiệp từ SII, tổng giá trị 805 tỷ đồng.
TDM cũng mở rộng sự hiện diện. Tháng 8, Công ty chi 6.3 tỷ đồng nâng sở hữu tại Biwase Quảng Bình lên 42.7%; góp vốn vào Cấp nước Gia Tân để đạt 23.5%, mua 8.3% Biwase Cần Thơ trị giá 23 tỷ đồng; và mua 10% vốn Đầu tư - Xây dựng Phú Mỹ Vinh trị giá 169 tỷ đồng.
Tử Kính
FILI - 13:00:00 29/11/2025
Chủ tịch HĐQT CTCP Nước sạch Thái Nguyên (Twaco, UPCoM: TNW) Nguyễn Quang Mãi vừa đăng ký bán 1.4 triệu cp trong giai đoạn 18/11-17/12. Động thái này diễn ra cùng thời điểm doanh nghiệp liên quan đến ông đăng ký mua vào 1 triệu đơn vị.
Trước giao dịch, ông Mãi nắm hơn 1.6 triệu cp TNW, tương đương 10.05% vốn. Nếu bán hết số lượng đăng ký, tỷ lệ sở hữu trực tiếp của Chủ tịch sẽ giảm còn 1.29%. Với mức giá hiện tại khoảng 12,500 đồng/cp, giá trị chuyển nhượng ước khoảng 17.5 tỷ đồng.
Chiều ngược lại, CTCP VBIC Việt Nam - nơi ông Mãi giữ ghế Chủ tịch - dự chi khoảng 12.5 tỷ đồng để sở hữu 1 triệu cp TNW. Nếu thương vụ hoàn tất, VBIC Việt Nam sẽ trở thành cổ đông lớn của TNW với tỷ lệ nắm giữ 6.25%.
Ông Nguyễn Quang Mãi, Chủ tịch HĐQT TNW
Dù muốn giảm sở hữu trực tiếp, ảnh hưởng của ông Mãi tại TNW gần như không đổi. Tập đoàn Quốc tế Đông Á (EAI) - doanh nghiệp do ông giữ vai trò Thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc - đang nắm 41% vốn TNW. Cộng cả phần nắm giữ cá nhân, quyền chi phối gắn với ông vẫn ít nhất 48.5%.
Ông Nguyễn Quang Mãi sinh năm 1977, có bằng Thạc sĩ Kỹ thuật thủy nông và đảm nhiệm vị trí Chủ tịch TNW từ năm 2015. Công ty nước sạch này vốn là Nhà máy nước Bắc Thái thành lập năm 1992, đổi tên vào năm 1997 và cổ phần hóa từ năm 2009. Sau chuyển đổi, tỉnh Thái Nguyên giảm tỷ lệ sở hữu còn 42.2%.
Trong quá khứ, EAI từng muốn nâng quyền chi phối tại TNW lên 51% khi đề nghị chào mua thêm cổ phần vào năm 2019, nhưng kế hoạch này dừng lại do thay đổi định hướng sử dụng vốn. Còn VBIC Việt Nam gần đây cũng đẩy mạnh gom cổ phiếu ngành nước. Tháng 3 năm nay, Công ty mua thêm 790,000 cp STW (Cấp nước Sóc Trăng), nâng tỷ lệ nắm giữ lên gần 24%. Trước đó, ông Mãi có nhiều năm tham gia điều hành STW và mới rời cương vị Chủ tịch kiêm Phó Tổng Giám đốc vào tháng 5/2024.
Trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu TNW giao dịch với thanh khoản thấp nhưng xu hướng tăng giá ổn định từ khi lên sàn năm 2017. Từ đầu 2025, giá cổ phiếu tăng hơn 15%.
Diễn biến giá cổ phiếu TNW
Về kết quả kinh doanh, TNW ghi nhận lợi nhuận quý 3/2025 hơn 6 tỷ đồng, giảm 22% so với cùng kỳ, dù doanh thu tăng 8%. Dù vậy, lợi nhuận 9 tháng đầu năm đạt hơn 10 tỷ đồng, mức cao nhất của cùng kỳ trong 10 năm, nhờ doanh thu tăng lên 183 tỷ đồng và giá vốn gần như đi ngang.
Công ty vẫn còn lỗ lũy kế gần 88 tỷ đồng trên vốn chủ sở hữu 213 tỷ đồng. Tổng tài sản đến cuối quý 3 đạt 840 tỷ đồng, chủ yếu là tài sản cố định. TNW đang vay dài hạn 446 tỷ đồng, phần lớn là vốn ADB phục vụ dự án cấp nước cho TP Thái Nguyên.
Tử Kính
FILI - 13:00:00 18/11/2025
7 doanh nghiệp sắp chốt quyền nhận cổ tức bằng tiền
Thêm 7 doanh nghiệp niêm yết thông báo lịch chốt quyền trả cổ tức bằng tiền
1. CTCP Công trình GTVT Quảng Nam (Mã: QTC)
Ngày đăng ký cuối cùng: 30/9/2025
Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 6% (600 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 31/10/2025
2. Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Mã: TCB)
Ngày đăng ký cuối cùng: 1/10/2025
Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 10% (1.000 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 22/10/2025
3. CTCP Trang (Mã: TFC)
Ngày đăng ký cuối cùng: 1/10/2025
Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 20% (2.000 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 24/10/2025
4. CTCP Bột giặt NET (Mã: NET)
Ngày đăng ký cuối cùng: 2/10/2025
Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 65% (6.500 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 15/10/2025
5. CTCP Thương mại Hóc Môn (Mã: HTC)
Ngày đăng ký cuối cùng: 2/10/2025
Tỷ lệ cổ tức đợt 2 năm 2025: 3% (300 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 16/10/2025
6. CTCP Lệ Ninh (Mã: LNC)
Ngày đăng ký cuối cùng: 3/10/2025
Tỷ lệ cổ tức năm 2024 và phần còn lại năm 2023: 0,67% (67 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 14/10/2025
7. CTCP Cấp nước Sóc Trăng (Mã: STW)
Ngày đăng ký cuối cùng: 20/10/2025
Tỷ lệ cổ tức năm 2024: 11,07% (1.107 đồng/cổ phiếu)
Ngày thanh toán: 10/11/2025





Quý 2/2025, lợi nhuận của nhóm doanh nghiệp cung cấp nước sạch tăng mạnh nhờ hiệu ứng điều chỉnh giá. Dù vậy, kết quả chung phân hóa khi nhiều công ty thiết lập kỷ lục mới, trong khi không ít đơn vị lại bị chi phí đầu vào bào mòn lợi nhuận.
Theo dữ liệu từ VietstockFinance, 41 doanh nghiệp ngành nước trên sàn chứng khoán ghi nhận tổng doanh thu hơn 9.3 ngàn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ 2024. Lợi nhuận ròng toàn ngành đạt 1.12 ngàn tỷ đồng, tăng 28%. Trong số này, 12 doanh nghiệp tăng trưởng 2-3 chữ số và 3 đơn vị đảo chiều có lãi, ngược lại 13 công ty báo lợi nhuận giảm từ 10-72%.
Giá bán mới tạo cú hích lợi nhuận
Đầu tư Nước sạch Sông Đà là trường hợp nổi bật. Nhờ sản lượng tăng 10% cùng chính sách giá mới, doanh thu vọt 74%, đạt 275 tỷ đồng. Lợi nhuận gộp tăng gấp 3.3 lần, lên 143 tỷ đồng giúp thu về lãi ròng 96 tỷ đồng, đảo chiều từ khoản lỗ 2.5 tỷ đồng năm trước.
Cấp nước Đà Nẵng lập kỷ lục khi doanh thu tăng 21%, lên 202 tỷ đồng. Biên lãi gộp cải thiện lên 45.9%; lợi nhuận ròng 62 tỷ đồng, cao hơn 155% cùng kỳ.
Doanh thu Nước sạch Bắc Giang ghi nhận 50 tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay. Tỷ suất lợi nhuận gộp tăng từ 32.6% lên 42.4%, giúp lợi nhuận chạm gần mức đỉnh quý 3/2023, đạt 5 tỷ đồng. Công ty cho biết, kết quả đến từ mở rộng mạng lưới cấp nước tại Tân Yên và Lục Nam.
Trong nhóm đầu ngành, Tổng công ty Nước - Môi trường Bình Dương (Biwase, HOSE: BWE) lần đầu chạm mốc doanh thu 1.32 ngàn tỷ đồng, tăng 28% nhờ hợp nhất thêm công ty con. Lợi nhuận liên doanh, liên kết đóng góp 77 tỷ đồng, đưa kết quả ròng lên 295 tỷ đồng, gấp 2.2 lần cùng kỳ.
Nhiều doanh nghiệp cấp nước báo lãi tăng 2-3 chữ số (Đvt: tỷ đồng)
Doanh nghiệp nước địa phương tích cực
Việc điều chỉnh giá cùng nỗ lực giảm thất thoát giúp doanh thu nhiều công ty cấp nước địa phương lên đỉnh mới.
Cấp nước Hải Phòng báo doanh thu gần mức kỷ lục quý 3/2024 nhờ mở rộng tập khách hàng và giá bán bình quân tăng 5% trong nửa đầu năm. Lợi nhuận ròng tăng 66%, lên 37 tỷ đồng.
Doanh thu Cấp thoát nước Long An đạt 95 tỷ đồng, tăng 11%, trong khi lợi nhuận gấp 2.3 lần, lên 8.4 tỷ đồng nhờ giảm thất thoát và chủ động nguồn nước mặt.
Cấp nước Cà Mau lần đầu vượt 40 tỷ đồng doanh thu, lợi nhuận giữ vững 5.8 tỷ đồng. Cấp nước Đắk Lắk lãi ròng hơn 17 tỷ đồng, tăng 44%. Cấp nước Thanh Hóa T cũng tiệm cận đỉnh doanh thu nhờ giảm tỷ lệ thất thoát, lợi nhuận theo đó tăng 13%, lên gần 18 tỷ đồng.
Chi phí leo thang bào mòn kết quả
Nhiều doanh nghiệp gặp khó khi chi phí đầu vào leo thang nhanh hơn, khiến lợi nhuận suy giảm dù doanh thu vẫn ở mức cao.
Tại VIWACO , biên lãi gộp co hẹp từ 34% xuống 21% do giá mua nước từ VCW tăng kể từ cuối tháng 3/2025. Lãi ròng theo đó giảm 28%, về 36 tỷ đồng.
Cấp nước Cần Thơ giảm 32% lợi nhuận do gánh nặng chi phí vận hành.
Cấp nước Nghệ An đạt kỷ lục doanh thu 94 tỷ đồng, nhưng biên lợi nhuận gộp rơi từ 25.9% xuống 15.3%. Nguyên nhân là giá bán không tăng từ năm 2018, trong khi chi phí đầu vào ngày càng cao.
Đáng chú ý là trường hợp của Nước Thủ Dầu Một khi doanh thu giảm gần nửa, còn 100 tỷ đồng do giá bán nước giảm mạnh. Lãi đi ngang nhờ khoản thu nhập từ cổ tức, lợi nhuận được chia.
Không ít đơn vị báo lợi nhuận giảm (Đvt: tỷ đồng)
Thời tiết và yếu tố kỹ thuật tác động mạnh
Nắng nóng kéo dài cùng xâm nhập mặn khiến sản lượng của Cấp thoát nước Bến Tre giảm 342,000m3, kéo lợi nhuận lùi 20% xuống 17 tỷ đồng.
Cấp nước Quảng Bình N tốn chi phí khắc phục sự cố tuyến ống và chi phí đấu nối khách hàng mới, khiến lợi nhuận giảm 30%, còn 3.7 tỷ đồng.
Cấp nước Sóc Trăng ghi nhận doanh thu cao nhất từ trước tới nay, nhưng giá vốn tăng mạnh đã bào mòn lợi nhuận. Cấp thoát nước Phú Yên cũng chịu ảnh hưởng tương tự, lãi ròng giảm 44%.
Doanh thu lên kỷ lục nhưng lợi nhuận Cấp nước Đồng Nai giảm 72%, do lỗ chênh lệch tỷ giá gần 47 tỷ đồng. Nước sạch Hải Dương cũng chịu tác động từ lỗ tỷ giá, lợi nhuận giảm 27%, còn 5.6 tỷ đồng.
Một số đơn vị thoát lỗ
Ngoài VCW như đề cập ở trên, ngành nước cũng chứng kiến 2 doanh nghiệp khác đảo chiều lợi nhuận.
Nước sạch Thái Nguyên đạt doanh thu 64 tỷ đồng, lợi nhuận gộp cao nhất 2 năm. Công ty thu lãi nhẹ 207 triệu đồng, đảo chiều từ khoản lỗ 15 tỷ đồng cùng kỳ.
Không còn “gánh nặng” từ nhà máy nước Tân Hiệp, Hạ tầng Nước Sài Gòn báo lãi gần 30 tỷ đồng.
VCW và SII báo lãi đậm trong khi cùng kỳ thua lỗ (Đvt: tỷ đồng)
Sản lượng tại TPHCM vẫn đi lùi
Các công ty con của Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn (Sawaco) tiếp tục ghi nhận sản lượng tiêu thụ sụt giảm. Tuy vậy, nhờ giá bán được điều chỉnh, nhiều đơn vị vẫn lập kỷ lục doanh thu.
Sản lượng Cấp nước Gia Định đi lùi trong quý 2, song nhờ tiết giảm chi phí, lợi nhuận tăng 36%, lên hơn 18 tỷ đồng.
Tiêu thụ nước tại Cấp nước Chợ Lớn giảm 4% còn 890,000m3, làm doanh thu nhích xuống. Dù vậy, biên lợi nhuận gộp tăng giúp lợi nhuận cải thiện 17%, lên 18 tỷ đồng.
Cấp nước Thủ Đức và Cấp nước Nhà Bè cùng báo doanh thu cao nhất từ trước tới nay.
Ngược lại, Cấp nước Bến Thành chịu chi phí sửa chữa hệ thống ống lớn, khiến lợi nhuận ròng giảm 51% còn 8.8 tỷ đồng, dù biên gộp mảng nước sạch vẫn ổn định.
Xu hướng giảm nợ vay dài hạn
Song song với bức tranh tăng trưởng kinh doanh nhờ điều chỉnh giá bán, nhiều doanh nghiệp ngành nước đang từng bước thu hẹp dư nợ vay dài hạn sau giai đoạn đầu tư mở rộng.
DNW là ví dụ tiêu biểu. Năm 2018, dư nợ dài hạn của DNW vượt 1.7 ngàn tỷ đồng, nhưng từ 2020 đến nay liên tục đi xuống, chỉ còn khoảng 576 tỷ đồng tại quý 2/2025.
BDW từ mức gần 134 tỷ đồng năm 2017, dư nợ giảm dần qua từng giai đoạn, đến quý 2 năm nay chỉ còn 28 tỷ đồng, tức thấp hơn 4.7 lần so với 8 năm trước.
HDW duy trì tốc độ giảm đều đặn, từ 402 tỷ đồng năm 2017 xuống còn khoảng 225 tỷ đồng. LDW hay NAW cũng có câu chuyện tương tự.
Ở nhóm doanh nghiệp quy mô vừa, nhiều công ty đã gần như “xóa” nợ dài hạn.
BTW giảm từ hơn 24 tỷ đồng năm 2018 xuống còn 3.8 tỷ đồng; GDW từ 33 tỷ đồng xuống chưa đến 1 tỷ đồng; trong khi BWS cũng hạ dần từ 6.4 tỷ đồng năm 2017 về 3.7 tỷ đồng ở quý 2/2025.
Xu hướng giảm dư nợ vay dài hạn diễn ra ở nhiều doanh nghiệp (Đvt: tỷ đồng)
Tử Kính
FILI - 12:00:00 13/09/2025
Lợi nhuận ngành nước phân hóa quý 1, tiêu thụ tại TPHCM giảm đồng loạt
Bức tranh lợi nhuận ngành nước trong 3 tháng đầu năm có sự phân hóa rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp bứt phá nhờ điều chỉnh giá bán tăng, trong khi không ít đơn vị hụt hơi do sản lượng tiêu thụ sụt giảm và chi phí vận hành tăng cao.
Theo dữ liệu từ VietstockFinance, 42 doanh nghiệp cấp nước (trên HOSE, HNX và UPCoM) ghi nhận tổng doanh thu gần 7.76 ngàn tỷ đồng, tăng 7.2% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lợi nhuận ròng chỉ tăng nhẹ 2.6%, đạt 811 tỷ đồng.
Nguyên nhân chủ yếu nằm ở sự chênh lệch chính sách giá giữa các địa phương và khả năng kiểm soát chi phí không đồng đều.
Hưởng lợi từ giá nước điều chỉnh tăng
Nhiều đơn vị cải thiện kết quả kinh doanh nhờ giá bán và sản lượng tăng. Nước sạch Thái Nguyên (UPCoM: TNW) tăng trưởng lợi nhuận hơn 333%, lên 4.4 tỷ đồng, nhờ sản lượng tăng và giảm chi phí tài chính.
Cấp nước Đắk Lắk (UPCoM: DWC) có doanh thu gần 78 tỷ đồng, tăng 15% và là mức cao nhất lịch sử. Lợi nhuận theo đó tăng 67%, đạt gần 10.5 tỷ đồng nhờ tăng giá nước từ đầu năm và nhu cầu sử dụng cao hơn, đưa biên lợi nhuận gộp lên kỷ lục 61.9%.
Giá bán bình quân tăng cũng giúp lãi Cấp nước Đà Nẵng (UPCoM: DNN) và Cấp nước Nhà Bè (HNX: NBW) tăng lần lượt 34% và 70%, lên 36 tỷ đồng và 12 tỷ đồng.
Cấp nước Thanh Hóa (UPCoM: THN) và Nước sạch Bắc Giang (UPCoM: BGW) chuyển biến tích cực khi giảm thất thoát, mở rộng hệ thống phân phối, dù mức tăng doanh thu khiêm tốn.
Lãi tăng bằng lần nhờ dòng tiền tài chính
Nổi bật nhất là Nước Thủ Dầu Một (HOSE: TDM) khi lợi nhuận tăng tới 283%, lên 144 tỷ đồng trong khi doanh thu giảm. Động lực chính không đến từ bán nước mà là khoản cổ tức hơn 107 tỷ đồng từ “ông lớn” BWE.
DNP Holding (HNX: DNP) cũng tạo bất ngờ khi lãi gấp 13 lần, lên hơn 8 tỷ đồng, nhờ tăng trưởng ở 3 mảng chính gồm nước sạch, gạch ốp lát và gia dụng. Khác biệt so với quý 1 năm ngoái là kỳ này hợp nhất thêm Nước Sài Gòn - An Khê.
Bất chấp doanh thu giảm, lợi nhuận của Cấp nước Bà Rịa - Vũng Tàu (UPCoM: BWS) được giữ vững hơn 66 tỷ đồng nhờ được chia cổ tức.
Nhiều doanh nghiệp báo lãi tăng trưởng 2 chữ số (Đvt: tỷ đồng)
Nguồn: Người viết tổng hợp
Chi phí vận hành “ăn mòn” hiệu quả kinh doanh
Dù doanh thu tích cực, nhiều doanh nghiệp lại hụt hơi khi chi phí đầu vào tăng nhanh hơn.
Tổng công ty nước - môi trường Bình Dương (HOSE: BWE) đạt doanh thu gần 924 tỷ đồng, tăng 17%, nhưng chỉ giữ được 148 tỷ đồng lợi nhuận, giảm 17% so với cùng kỳ. Nguyên nhân chủ yếu từ lỗ tỷ giá khiến chi phí tài chính tăng 45%, bên cạnh chi phí vận hành tăng mạnh. Dù vậy, biên lợi nhuận gộp vẫn cao nhất 4 quý gần đây, 46.6%.
Ở nhóm quy mô nhỏ hơn, Cấp thoát nước Phú Yên (UPCoM: PWS) sụt lãi gần 37% do chi phí đấu nối cuối năm 2024 tiếp tục phân bổ vào kỳ này. Tương tự, kết quả của Nước sạch Quảng Trị (UPCoM: NQT) cũng giảm 35% vì giá vốn tăng nhanh hơn doanh thu.
Doanh thu và biên lãi gộp của Cấp nước Cà Mau (UPCoM: CMW) ở mức cao kỷ lục, lần lượt gần 38 tỷ đồng và 43%, nhưng lợi nhuận lại giảm do tăng chi cho mở rộng khách hàng, sửa chữa hệ thống và giảm thất thoát.
Thời tiết gây bất lợi
Một số doanh nghiệp chịu tác động từ điều kiện khí hậu ít khắc nghiệt hơn cùng kỳ, khiến nhu cầu sử dụng nước sạch giảm.
Cấp thoát nước Bến Tre (UPCoM: NBT) cho biết tình trạng xâm nhập mặn và nắng nóng không gay gắt như năm ngoái, khiến sản lượng tiêu thụ giảm hơn 122,000m³, trong khi chi phí vận hành tăng, lãi ròng còn 13 tỷ đồng, giảm hơn 12%.
Do mưa nhiều và nền nhiệt độ thấp kéo dài, doanh thu Cấp thoát nước Bình Định (UPCoM: BDW) thấp nhất hai năm, còn 64 tỷ đồng. Lợi nhuận cũng giảm 34% còn 5.4 tỷ đồng.
Tương tự lý do thời tiết, doanh thu Cấp nước Quảng Bình (UPCoM: NQB) không tăng, cùng loạt chi phí tăng lên khiến lợi nhuận giảm 27%, còn 2.3 tỷ đồng.
Sản lượng tiêu thụ ở TPHCM đồng loạt giảm
Tại khu vực TPHCM, ngoại trừ Cấp nước Nhà Bè (HNX: NBW) báo lãi tăng trưởng 70%, còn lại đều ghi nhận kết quả đi lùi do sản lượng tiêu thụ sụt giảm, bất chấp giá bán bình quân hầu hết tăng.
Sản lượng của Cấp nước Chợ Lớn (HOSE: CLW) giảm mạnh nhất hơn 1.2 triệu m³, tương đương giảm 4.6%; giá bán bình quân cũng giảm nhẹ, trong khi giá mua sỉ tăng. Lợi nhuận theo đó giảm 44%, còn 12 tỷ đồng.
Lượng nước tiêu thụ tại Cấp nước Gia Định (HNX: GDW) giảm hơn 297,000m³, cộng với chi phí vận hành đội lên khiến lợi nhuận giảm gần 89%, mang về vỏn vẹn 700 triệu đồng.
Cấp nước Bến Thành (HNX: BTW) sụt hơn 415,000m³, dù giá bán bình quân tăng nhẹ. Chi phí tăng khiến lãi ròng còn gần 19 tỷ đồng, giảm 21%. Cấp nước Thủ Đức (HOSE: TDW) bị ảnh hưởng tương tự khi giá mua sỉ tăng, đẩy giá vốn tăng, lợi nhuận giảm gần 19%, 11.4 tỷ đồng.
Không ít đơn vị giảm sâu lợi nhuận (Đvt: tỷ đồng)
Nguồn: Người viết tổng hợp
Thua lỗ vì chi phí tài chính đè nặng
Một số doanh nghiệp mở đầu năm 2025 với kết quả âm, chủ yếu do gánh nặng chi phí tài chính và các khoản phát sinh bất thường.
Lỗ nặng nhất ngành là Hạ tầng Nước Sài Gòn (UPCoM: SII) với 51.4 tỷ đồng. Việc hợp nhất Nước Sài Gòn - An Khê được cho là làm lợi nhuận gộp giảm, trong khi Công ty còn phát sinh hơn 40 tỷ đồng chi phí tài chính.
Đầu tư Nước sạch Sông Đà (UPCoM: VCW) tiếp tục chuỗi lỗ kéo dài với gần 24 tỷ đồng, do phải gánh 39.3 tỷ đồng chi phí lãi vay, trong khi lợi nhuận gộp chỉ 26.6 tỷ đồng.
Duy nhất Cấp nước Sóc Trăng (UPCoM: STW) chuyển từ lãi sang lỗ hơn 2.3 tỷ đồng do chi phí sửa chữa tăng và khoản xử phạt hành chính liên quan đến môi trường, thuế và đăng ký kinh doanh lên đến 12 tỷ đồng.
3 doanh nghiệp lỗ trong quý 1/2025 (Đvt: tỷ đồng)
Nguồn: Người viết tổng hợp
Белая этикетка
API данных
Веб-плагины
Создатель Плакатов
План агентства
Риск потерь при торговле такими финансовыми инструментами, как акции, валюта, сырьевые товары, фьючерсы, облигации, ETF и криптовалюты, может быть значительным. Вы можете полностью потерять средства, размещенные у брокера. Поэтому вам следует тщательно взвесить, подходит ли вам такая торговля с учетом ваших обстоятельств и финансовых ресурсов.
Ни одно решение об инвестировании не должно приниматься без проведения тщательной проверки самостоятельно или без консультации с вашими финансовыми консультантами. Наш веб-контент может не подойти вам, поскольку мы не знаем ваших финансовых условий и инвестиционных потребностей. Наша финансовая информация может иметь задержку или содержать неточности, поэтому вы должны нести полную ответственность за любые ваши торговые и инвестиционные решения. Компания не несет ответственности за потерю вашего капитала.
Без разрешения сайта запрещается копировать графику, тексты или торговые марки сайта. Права интеллектуальной собственности на содержание или данные, включенные в этот сайт, принадлежат его поставщикам и торговцам.
Не вошли в систему
Войдите в систему, чтобы получить доступ к дополнительным функциям

Участник FastBull
Пока нет
Покупка
Войти
Зарегистрироваться