Котировки
Новости
Анализ
Пользователь
24/7
Экономический Календарь
Обучение
Данные
- Имена
- Последний
- Пред.












Сообщество аккаунт
Сигнальные аккаунты для участников
Все сигнальные аккаунты
Все конкурсы



Великобритания Ежемесячный рост основного индекса потребительских цен (Нояб)А:--
П: --
П: --
Великобритания Ожидания уровня инфляцииА:--
П: --
П: --
Великобритания Годовой рост индекса базовых розничных цен (Нояб)А:--
П: --
П: --
Великобритания Годовой рост основного индекса потребительских цен (Нояб)А:--
П: --
П: --
Великобритания Месячный рост цен производства (Не сезонно скорректированный) (Нояб)А:--
П: --
Великобритания Годовой рост цен производства (Не сезонно скорректированный) (Нояб)А:--
П: --
П: --
Великобритания Месячный рост цен на вводимые товары (Не сезонно скорректированный) (Нояб)А:--
П: --
Великобритания Годовой рост розничных цен (Нояб)А:--
П: --
П: --
Индонезия Ставка обратного РЕПО на 7 днейА:--
П: --
П: --
Индонезия Ставка по депозитам (Дек)А:--
П: --
П: --
Индонезия Ставка кредитования (Дек)А:--
П: --
П: --
Индонезия Займы (год к году) (Нояб)А:--
П: --
П: --
Южная Африка Годовой рост основного индекса потребительских цен (Нояб)А:--
П: --
П: --
Южная Африка ИПЦ год к году (Нояб)А:--
П: --
П: --
Германия Индекс ожиданий деловой среды IFO (Дек)А:--
П: --
Германия Индекс текущих условий дел IFO (Дек)А:--
П: --
П: --
Германия Индекс делового климата IFO (Дек)А:--
П: --
Еврозона Окончательный ежемесячный рост основного индекса потребительских цен (Нояб)А:--
П: --
П: --
Еврозона Годовой рост трудовых издержек (3 квартал)А:--
П: --
Еврозона Основной индекс потребительских цен, окончательные данные, год к году (Нояб)А:--
П: --
П: --
Еврозона Основной индекс потребительских цен, окончательные данные, месяц к месяцу (Нояб)А:--
П: --
П: --
Еврозона Окончательный годовой рост основного индекса потребительских цен (Нояб)А:--
П: --
П: --
Еврозона ИПЦ год к году (за исключением табака) (Нояб)А:--
П: --
П: --
Еврозона ИПЦ месяц к месяцу (за исключением продуктов питания и энергии) (Нояб)А:--
П: --
П: --
Еврозона Годовой рост валовой заработной платы (3 квартал)А:--
П: --
П: --
Еврозона Окончательный ИПЦ год к году (Нояб)А:--
П: --
П: --
Еврозона Окончательный ИПЦ месяц к месяцу (Нояб)А:--
П: --
П: --
Великобритания Ожидания промышленных цен CBI (Дек)А:--
П: --
П: --
Великобритания Промышленные тенденции CBI - Заказы (Дек)А:--
П: --
П: --
США Индекс активности заявок на ипотеку MBA (недельное изменение)А:--
П: --
П: --
США Еженедельные изменения импорта сырой нефти EIA--
П: --
П: --
США Еженедельное изменение запасов сырой нефти EIA в Кушинге, Оклахома--
П: --
П: --
США Изменение еженедельных запасов сырой нефти EIA--
П: --
П: --
США Еженедельные изменения запасов мазута EIA--
П: --
П: --
США Изменение еженедельных запасов бензина EIA--
П: --
П: --
США Проекция еженедельного спроса на сырую нефть по данным EIA--
П: --
П: --
Россия Индекс цен производителей (год к году) (Нояб)--
П: --
П: --
Россия Индекс цен производителей (месяц к месяцу) (Нояб)--
П: --
П: --
Австралия Ожидания потребительской инфляции--
П: --
П: --
Южная Африка Индекс цен производителей (год к году) (Нояб)--
П: --
П: --
Еврозона Ежемесячный рост выпуска в строительстве (Сезонно скорректированный) (Окт)--
П: --
П: --
Еврозона Годовой рост выпуска в строительстве (Окт)--
П: --
П: --
Великобритания Голосование о неизменности процентной ставки Банка Англии (Дек)--
П: --
П: --
Мексика Месячный рост розничных продаж (Окт)--
П: --
П: --
Великобритания Базовая процентная ставка--
П: --
П: --
Великобритания Голосование по снижению процентной ставки Банка Англии (Дек)--
П: --
П: --
Великобритания Голосование по повышению процентной ставки Банка Англии (Дек)--
П: --
П: --
Заявление о ставке ПДК
Еврозона Ставка депозита Европейского центробанка--
П: --
П: --
Еврозона Маржинальная ставка кредитования Европейского центробанка--
П: --
П: --
Еврозона Основная ставка рефинансирования Европейского центробанка--
П: --
П: --
Заявление ЕЦБ о денежно-кредитной политике
Канада Годовой рост среднего заработка в неделю (Окт)--
П: --
П: --
США Годовой рост основного индекса потребительских цен (Не сезонно скорректированный) (Нояб)--
П: --
П: --
США Ежемесячный рост основного индекса потребительских цен (Сезонно скорректированный) (Нояб)--
П: --
П: --
США Еженедельные первичные заявки на пособие по безработице (сезонно скорректированные)--
П: --
П: --
США Еженедельные продолжающиеся заявки на пособие по безработице (сезонно скорректированные)--
П: --
П: --
США Месячный рост реального дохода (Сезонно скорректированный) (Нояб)--
П: --
П: --
США ИПЦ месяц к месяцу (Скорректированный на сезонность) (Нояб)--
П: --
П: --
США ИПЦ год к году (Не скорректированный на сезонность) (Нояб)--
П: --
П: --
США Еженедельное среднее за 4 недели по первичным заявкам на пособие по безработице (сезонно скорректированное)--
П: --
П: --


Нет соответствующих данных
Последние мнения
Последние мнения
Актуальные темы
Лучшие обозреватели
Последнее Обновление
Белая этикетка
API данных
Веб-плагины
План агентства
Посмотреть все

Нет данных

Các công ty chứng khoán (CTCK) khuyến nghị theo dõi IDI do nhu cầu giảm trong bối cảnh kinh tế kém khả quan; tăng tỷ trọng PAN nhờ kỳ vọng doanh thu từ các tháng cao điểm mùa vụ cuối năm 2025 và đầu năm 2026; VCB khả quan nhờ tổng thu nhập năm 2026 sẽ tăng trưởng tốt.
Theo dõi IDI với giá mục tiêu 6,370 đồng/cp
CTCK FPT (FPTS) dự phóng doanh thuần trong quý 4/2025 của CTCP Đầu tư và Phát triển Đa Quốc Gia - IDI dự kiến giảm 3.7% so với cùng kỳ và biên lợi nhuận gộp giảm 1.8 điểm % (tương ứng cả năm 2025 giảm lần lượt 4.8% và 0.5 điểm % so với năm trước) do (1) giá xuất khẩu cá tra và phụ phẩm liên quan giảm khi nhu cầu tiêu thụ tại thị trường Mexico và Trung Quốc suy yếu trong bối cảnh kinh tế kém khả quan, và (2) chi phí bã đậu nành tăng nhẹ khi Trung Quốc tăng nhập khẩu.
Cụ thể, thị trường Mexico (chiếm 25% doanh thu) chững lại do (1) Chính sách tiền tệ tài khóa thắt chặt theo chủ trương của Tổng thống đương nhiệm nhằm giảm thiểu thâm hụt ngân sách và (2) Rào cản thương mại bởi chính sách thuế quan và phi thuế quan từ Mỹ gây ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế của Mexico.
Còn thị trường Trung Quốc (chiếm 15% doanh thu) duy trì đà giảm do (1) Nhu cầu nội địa suy yếu trong bối cảnh kinh tế ảm đạm sau đợt khủng hoảng kép đồng thời (2) Cạnh tranh với (i) cá rô phi nội địa khi gặp bất lợi về thuế suất tại Mỹ với mức thuế suất đạt 47% và (ii) cá minh thái Nga tiếp tục bị cấm nhập khẩu vào Mỹ.
Ngược lại, IDI được hưởng lợi từ việc phát hành trái phiếu xanh kể từ cuối quý 4/2024 với lãi suất ưu đãi giúp tiết kiệm 3 điểm % lãi suất hằng năm. Theo đó, lô trái phiếu xanh IDIH2432001 được phát hành với quy mô 1,000 tỷ đồng, kỳ hạn 8 năm, lãi suất ưu đãi cố định 5.58%/năm và dự kiến đáo hạn vào ngày 31/10/2032.
Triển vọng dài hạn khả quan nhờ động lực mảng cá tra và phụ phẩm liên quan trong cả hai nhóm thị trường. Trong đó, thị trường xuất khẩu (chiếm 80% doanh thu): Động lực tăng trưởng đến từ (1) Lợi thế cạnh tranh giá rẻ khi được (i) miễn thuế theo FTAs (Mexico) đồng thời (ii) hưởng lợi về chênh lệch thuế suất so với cá thịt trắng khác (Trung Quốc và Mỹ) và (2) Dư địa mở rộng tại các thị trường tiềm năng (Mexico và Mỹ).
Còn thị trường nội địa (chiếm 20% doanh thu) Động lực tăng trưởng đến từ nhu cầu thực phẩm đông lạnh chế biến sẵn, sơ chế nhanh gia tăng do ưa chuộng sự tiện lợi.
Nhìn chung, FPTS nhận định tăng trưởng doanh thu cả năm 2025 của IDI ước tính giảm 7.3 điểm % so với dự phóng trước và biên lợi nhuận gộp giảm 3.6 điểm % khi giá xuất khẩu giảm nhẹ trong bối cảnh nhu cầu suy yếu, đồng thời chi phí nuôi cá tra nguyên liệu của doanh nghiệp dự kiến tăng nhẹ bởi giá bã đậu nành. Trong dài hạn, nhu cầu tiêu thụ tại Trung Quốc và Mexico được dự báo phục hồi chậm hơn dự kiến trong bối cảnh kinh tế ảm đạm.
Về yếu tố cần theo dõi, ngày 26/10/2025, Việt Nam và Mỹ công bố tuyên bố chung về khuôn khổ Hiệp định thương mại đối ứng, công bằng và cân bằng nhân dịp gặp gỡ lãnh đạo hai bên khi tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 47 tại Malaysia.
Theo đó, Việt Nam và Mỹ hướng tới tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu đôi bên tiếp cận thị trường thông qua xử lý các rào cản thuế quan và phi thuế quan. Việt Nam dự kiến mở rộng ưu đãi thị trường cho phần lớn hàng hóa công nghiệp và nông nghiệp của Mỹ. Đồng thời, Mỹ duy trì mức thuế đối ứng 20% theo Sắc lệnh Hành pháp số 14257 với hàng có xuất xứ Việt Nam và xem xét một số sản phẩm được áp dụng mức thuế 0%.
Trong trường hợp được miễn hoặc giảm thuế đối ứng so với giai đoạn trước, cá tra Việt Nam và IDI nói riêng sẽ tăng mạnh khả năng cạnh tranh về giá tại Mỹ.
FPTS khuyến nghị theo dõi cổ phiếu IDI với giá mục tiêu 6,370 đồng/cp, thấp hơn 11.3% so với giá đóng cửa ngày lập báo cáo 08/12/2025. Nhà đầu tư có thể chờ mua IDI khi đạt mức giá 5,320 đồng/cp, tương ứng lợi nhuận kỳ vọng đạt 20%.
Tăng tỷ trọng PAN với giá mục tiêu 32,600 đồng/cp
CTCK Mirae Asset (MAS) cho biết giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2025 giảm khoảng 18%, do Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu và xu hướng tăng tự chủ nguồn cung tại các thị trường nhập khẩu lớn như Philippines và Indonesia, khiến nhu cầu toàn cầu suy yếu. Diễn biến này tạo áp lực lên giá bán và biên lợi nhuận của mảng nông nghiệp CTCP Tập đoàn PAN (HOSE: PAN).
Tuy nhiên, nhờ lợi thế tự chủ được nguồn giống và duy trì sự ổn định nhờ tập trung vào phân khúc gạo cao cấp, PAN đã giảm thiểu rủi ro trước biến động giá. Đồng thời, nhu cầu giống và thuốc bảo vệ thực vật dự kiến phục hồi trong vụ Đông Xuân – vụ chiếm khoảng 70% sản lượng năm, qua đó hỗ trợ doanh thu trong quý 4.
Ở mảng thực phẩm, PAN đang trong quá trình tái cơ cấu, tập trung mở rộng xuất khẩu và điều chỉnh cơ cấu sản phẩm theo phân khúc trung – cao cấp nhằm phù hợp xu hướng “cao cấp hóa” trong tiêu dùng. Song song đó, doanh nghiệp đẩy mạnh kênh bán lẻ hiện đại nhằm cải thiện biên lợi nhuận trong giai đoạn cuối năm.
Còn với thủy sản, Công ty ghi nhận mức tăng trưởng tích cực nhất trong 9 tháng đầu năm 2025, với doanh thu xuất khẩu tôm và cá tra đều tăng trên 23%. Tuy nhiên, áp lực từ thuế đối ứng 20% của Mỹ và rủi ro từ các loại thuế chống bán phá giá (AD) và chống trợ giá (CVD) dự kiến công bố vào tháng 12/2025 tại Mỹ có thể khiến hoạt động xuất khẩu gặp nhiều thử thách hơn.
PAN đã lên kế hoạch tái cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng mở rộng sang Nhật Bản, Canada, Úc và Hàn Quốc, giúp giảm phụ thuộc vào thị trường Mỹ. Đồng thời, việc mở rộng danh mục sản phẩm giá trị gia tăng giúp cải thiện biên lợi nhuận và nâng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Năm 2025, MAS dự phóng doanh thu PAN đạt 17,827 tỷ đồng (tăng 10% so với năm trước), lãi ròng đạt 655 tỷ đồng (tăng 7.6%), biên lợi nhuận thu hẹp từ 20.9% năm 2024 xuống 20.3%, chủ yếu do chi phí đầu vào ở mức cao cùng với áp lực từ thuế đối ứng. Năm 2026, ước tính doanh thu đạt 18,802 tỷ đồng (tăng 5%), lãi ròng đạt 723 tỷ đồng (tăng 10%), biên lợi nhuận gộp cải thiện lên mức 20.6% nhờ kỳ vọng áp lực chi phí đầu vào giảm dần.
Dự phóng kết quả kinh doanh năm 2025-2026 của PAN
EPS dự kiến năm 2025 đạt 3,176 đồng/cp, tương ứng mức P/E dự phóng ở mức 8,8 lần. MAS khuyến nghị tăng tỷ trọng PAN vì kỳ vọng doanh thu từ các tháng cao điểm mùa vụ cuối năm 2025 và đầu năm 2026; và đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu giảm thiểu rủi ro.
VCB khả quan với giá mục tiêu 69,300 đồng/cp
CTCK ACB (ACBS) cho biết kết quả kinh doanh quý 3/2025 của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (HOSE: VCB) tăng trưởng khiêm tốn với lãi trước thuế đạt 11,239 tỷ đồng (tăng 5% so với cùng kỳ và 1.9% so với quý trước). Tổng thu nhập tăng nhẹ 3.5% so với cùng kỳ và 1% so với quý trước, trong khi chi phí hoạt động và chi phí dự phòng duy trì ổn định.
Tăng trưởng tín dụng thận trọng (tăng 4.7% so với quý trước, tăng 12.4% so với đầu năm và 16.1% so với cùng kỳ) với động lực tăng trưởng đến từ tất cả các phân khúc khách hàng, phản ánh quan điểm thận trọng trong việc giải ngân của VCB. NIM tiếp tục giảm nhưng với tốc độ chậm lại (giảm 7 điểm cơ bản so với quý trước và 29 điểm cơ bản so với cùng kỳ). Theo đó, thu nhập lãi thuần tăng 8% so với cùng kỳ và 3.5% so với quý trước.
ACBS đánh giá thu nhập ngoài lãi của VCB chưa nổi bật khi tăng 4.2% so với cùng kỳ nhưng giảm 8.4% so với quý trước). Dù có sự phục hồi ở mảng dịch vụ (giảm 26.2% so với cùng kỳ do có hạch toán phí banca trả trước) nhưng kinh doanh ngoại hối sụt giảm (giảm 5% so với cùng kỳ và 21.8% so với quý trước) và thu nợ ngoại bảng chậm lại (tăng 18.1% so với cùng kỳ nhưng giảm 26.4% so với quý trước).
Bù lại, ACBS cho rằng chất lượng tài sản của VCB được duy trì ở mức tốt. Tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ nợ nhóm 2 đi ngang ở mức 1.03% và 0.27% – mức thấp nhất trong ngành, nhờ việc giải ngân tín dụng một cách chọn lọc. Chi phí tín dụng nhờ đó được giữ ở mức thấp chỉ 0.05%, chủ yếu đến từ dự phòng chung.
9 tháng đầu năm 2025, VCB hoàn thành 75.8% kế hoạch lợi nhuận và 74.2% dự phóng của ACBS. Cho cả năm 2025, ACBS dự báo lãi trước thuế ở mức 44,699 tỷ đồng, tăng 5.8% so với năm trước dù kế hoạch được ĐHĐCĐ thông qua chỉ tăng 3.5%.
Cho năm 2026, ACBS dự báo lãi trước thuế đạt 47,433 tỷ đồng, tăng 6.1% so với năm trước. Mặc dù tổng thu nhập tăng trưởng tốt hơn (tăng 16.2%) nhờ NIM cải thiện 10 điểm cơ bản, CTCK này dự báo VCB sẽ tăng mạnh chi phí dự phòng (tăng 241%) để duy trì bộ đệm dự phòng ở mức trên 200%. Với triển vọng lợi nhuận chưa tăng trưởng mạnh trong ngắn hạn, ACBS hạ P/E mục tiêu từ 18x xuống 16.5x, tương đương trung vị lịch sử.
Dự phóng kết quả kinh doanh 2025-2026 của VCBNguồn: ACBS
Thượng Ngọc
FILI - 11:30:37 15/12/2025
Các công ty chứng khoán (CTCK) khuyến nghị mua PHR nhờ triển vọng từ chuyển đổi đất cao su thành khu công nghiệp (KCN); mua CTG nhờ chất lượng tài sản cải thiện sẽ hỗ trợ tích cực cho lợi nhuận giai đoạn 2025-2026; mua IDC nhờ nền tảng cơ bản vững chắc, dòng tiền mạnh mẽ và chất xúc tác từ các dự án sắp tới.
Mua PHR với giá mục tiêu 73,800 đồng/cp
CTCK FPT (FPTS) cho rằng mảng cao su của CTCP Cao su Phước Hòa sẽ tăng trưởng trong năm 2025 với lợi nhuận gộp tăng 19%, đạt 1,746 tỷ đồng.
Cụ thể, sản lượng tiêu thụ của PHR trong năm 2025 tăng 8% nhờ đẩy mạnh tiêu thụ hàng tồn kho (chiếm 12% tổng sản lượng tiêu thụ năm 2025). Trong khi đó sản lượng sản xuất dự phóng giảm 5% do (1) thời tiết kém thuận lợi khi xác suất La Nina tăng trong giai đoạn cao điểm khai thác và (2) vườn cây Campuchia bắt đầu thanh lý, tái canh giai đoạn 1.
Giá bán bình quân năm tăng 7%, cao hơn 3 điểm % so với giả định trước, phản ánh lo ngại về thiếu hụt nguồn cung cao su tự nhiên gia tăng khi (a) sản lượng sản xuất tăng thấp hơn kỳ vọng; và (b) nhu cầu tiêu thụ dự phóng cải thiện sau khi Mỹ và Trung Quốc đạt thỏa thuận đình chiến thương mại trong tháng 11/2025. Giá bán cao su trong quý 4/2025 dự kiến tăng 2% so với dự phóng trước đó. Tuy nhiên, giá cao su vẫn ở mức thấp hơn so với cùng kỳ do bị hạn chế bởi giá dầu Brent dự phóng giảm 21%, còn 62 USD/thùng trong quý 4/2025, theo EIA.
Triển vọng dài hạn mảng cao su vẫn giữ ổn định. Dù sản lượng khai thác giảm nhẹ do chuyển đổi đất sang khu công nghiệp và doanh nghiệp không mở rộng diện tích trồng mới, mảng cao su PHR vẫn duy trì tăng trưởng nhờ giá bán giữ xu hướng đi lên và nhu cầu cao su tự nhiên toàn cầu được dự phóng thiếu hụt kéo dài đến 2028. Giá bán cao su được kỳ vọng tăng 7% trong năm 2025 và bình quân 2.1%/năm giai đoạn 2025–2028, đủ bù đắp phần giảm sản lượng. Biên lợi nhuận gộp duy trì quanh 23% dù chi phí thu mua cao hơn, nhờ mặt bằng giá bán cao và nhu cầu ổn định từ ngành săm lốp toàn cầu.
Đối với mảng bất động sản công nghiệp, PHR bắt đầu bước vào giai đoạn tăng trưởng nhờ cải thiện quỹ đất sẵn sàng cho thuê và lợi nhuận cao từ công ty liên kết.
Cụ thể, KCN Tân Lập 1 quy mô 201.6 ha (PHR sở hữu gián tiếp 51%) dự kiến hoàn tất pháp lý và đi vào cho thuê từ năm 2027, nâng lợi nhuận gộp KCN của PHR lên 103% so với giai đoạn 2022–2024, tương đương 274 tỷ đồng/năm. Lợi thế của Tân Lập 1 nằm ở vị trí liền vùng nguyên liệu gỗ, kết nối tốt với thị trường Đồng Nai và kỳ vọng thời gian lấp đầy dự án là 10 năm, tương đương với các KCN tại Bình Dương cũ.
Trong khi đó, công ty liên kết CTCP Khu Công nghiệp Nam Tân Uyên đóng góp lớn trong lợi nhuận trước thuế nhờ khu công nghiệp Nam Tân Uyên giai đoạn 2 (NTC3) bắt đầu cho thuê. Lợi nhuận sau thuế của NTC giai đoạn 2025–2028 dự kiến đạt bình quân 712 tỷ đồng mỗi năm, cao hơn 1.36 lần so với giai đoạn 2021–2024, chủ yếu nhờ dự án NTC3 bắt đầu cho thuê từ cuối 2024. Cổ tức và phần lãi từ NTC dự kiến đóng góp khoảng 232 tỷ đồng/năm cho PHR trong giai đoạn 2025-2028.
Dự án VSIP III dự kiến tiếp tục đóng góp bình quân khoảng 133 tỷ đồng/năm trong giai đoạn 2025-2028. Hiện tại, PHR đang ghi nhận 20% lợi nhuận gộp từ dự án này theo thỏa thuận bồi thường.
Tổng đóng góp của mảng bất động sản công nghiệp vào lợi nhuận trước thuế của PHR dự báo đạt 1,708 tỷ đồng, giảm 0.25% so với dự phóng trước đó chủ yếu đến từ việc điều chỉnh tăng chi phí xây dựng theo mặt bằng giá nguyên vật liệu trên thị trường.
Mặt khác, việc chuyển đổi đất cao su sang đất khu công nghiệp là định hướng chung của Chính phủ và Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (GVR). PHR có kế hoạch chuyển đổi khoảng 7,000 ha đất. Trong đó, FPTS dự phóng PHR sẽ ghi nhận 2,000 tỷ đồng từ việc đền bù 786 ha đất dự án KCN Cơ khí do Thaco làm chủ đầu tư, dự kiến được chi trả trong giai đoạn 2026–2027.
Với sự đóng góp của 2 mảng kinh doanh trên, FPTS dự phóng kết quả kinh doanh năm 2025 tăng trưởng tích cực với doanh thu thuần tăng 15%, đạt 1,885 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế tăng 28% so với năm trước, đạt 587 tỷ đồng. Mức tăng này nhờ (1) mảng cao su cải thiện nhờ sản lượng tiêu thụ và giá bán cải thiện; (2) mảng khu công nghiệp chuyển biến khả quan khi KCN Nam Tân Uyên mở rộng giai đoạn 2 bắt đầu cho thuê và tiến độ cho thuê KCN VSIP III khả quan.
Triển vọng của PHR giai đoạn 2025-2028 duy trì tích cực khi lợi nhuận trước thuế dự kiến giữ ở mức cao hơn đáng kể so với trung bình giai đoạn 2021-2024. Mức tăng này được hình thành từ ba động lực chính: (1) mảng cao su duy trì ổn định ở mặt bằng cao; (2) mảng khu công nghiệp bước vào giai đoạn tăng trưởng từ dự án mới cho thuê; và (3) khoản đền bù đất cao su dự kiến mang lại lợi nhuận đột biến trong giai đoạn 2026-2027.
Theo đó, FPTS khuyến nghị mua PHR với giá mục tiêu 73,800 đồng/cp.
Mua CTG với giá mục tiêu 63,600 đồng/cp
CTCK ACB (ACBS) dự báo lãi trước thuế năm 2025 của VietinBank (HOSE: CTG) đạt 49,836 tỷ đồng, tăng 20% so với năm trước đó, động lực tăng trưởng đến từ tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức cao 16.8% và NIM hồi phục nhẹ 8 điểm cơ bản so với cùng kỳ, lên 2.71%.
Dự phóng kết quả kinh doanh 2025-2026 của CTG
ACBS đánh giá trong giai đoạn 2023 - quý 1/2025, nhóm khách hàng bán lẻ và một số khách hàng doanh nghiệp lớn bị chuyển nợ xấu khiến chi phí trích lập dự phòng của CTG luôn ở mức cao. Tuy nhiên, với việc CTG kiểm soát chất lượng tín dụng và chủ động trích lập dự phòng để làm dày bộ đệm dự phòng giúp áp lực trích lập dự phòng trong giai đoạn tới sẽ không còn lớn. Việc kiểm soát chi phí tín dụng sẽ hỗ trợ tích cực cho lợi nhuận của CTG trong năm 2025-2026.
Đối với nợ tiềm ẩn chuyển xấu, đến cuối quý 1/2025, nợ tái cơ cấu theo Thông tư 02/2023 và Thông tư 53/2024 chỉ chiếm dưới 0.1% tổng dư nợ của CTG, cho thấy rủi ro nợ tái cơ cấu bị chuyển xấu là không đáng kể. Số ngày thu lãi cũng ở mức vừa phải 40 ngày, cho thấy nợ tiềm ẩn xấu không quá lớn.
Trước những rủi ro đến từ thuế quan, CTG đã chủ động rà soát danh mục cho vay để tìm các giải pháp ứng phó phù hợp. Dư nợ cho vay doanh nghiệp có xuất khẩu sang Mỹ chiếm tỷ trọng 8.5%, tuy nhiên, thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp khá đa dạng và không quá tập trung vào thị trường Mỹ. Nhìn chung, CTG không bị tác động đáng kể bởi thuế quan.
Với những yếu tố trên, ACBS khuyến nghị mua CTG với giá mục tiêu 63,600 đồng/cp.
Mua IDC với giá mục tiêu 50,400 đồng/cp
CTCK Yuanta Việt Nam (YSVN) nhận định thuế quan không làm thay đổi câu chuyện tăng trưởng của ngành sản xuất Việt Nam. Khi các công ty đa quốc gia đa dạng hóa cơ sở sản xuất để tăng cường khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng, các lợi thế của Việt Nam về (1) chi phí lao động, chi phí điện, giá thuê đất khu công nghiệp; và (2) vị trí chiến lược (giáp biên giới với Trung Quốc và nằm trên tuyến thương mại toàn cầu trọng yếu) tiếp tục giúp Việt Nam trở thành một trong những điểm đến sản xuất hấp dẫn nhất trong khu vực.
Trong đó, danh mục khu công nghiệp đa dạng của Tổng Công ty IDICO - CTCP trên cả miền Bắc và miền Nam giúp Công ty có thể thu hút khách thuê từ các ngành sản xuất điện tử và công nghiệp hỗ trợ.
Với khoảng 440 ha đất sẵn sàng cho thuê, IDC có vị thế rất thuận lợi để hưởng lợi từ tình hình này trong những năm tới.
Bên cạnh đó, việc có thêm 4 KCN mới được phê duyệt với tổng diện tích thương phẩm là 910 ha tạo ra nền tảng vững chắc cho tăng trưởng dài hạn của Công ty.
Các khu công nghiệp của IDC nằm ở các trung tâm công nghiệp trọng điểm phía Bắc và phía Nam, thu hút khách thuê đa dạng thuộc nhiều ngành công nghiệp khác nhau.
Ví dụ như, KCN Phú Mỹ II & Phú Mỹ II mở rộng (TPHCM – Bà Rịa - Vũng Tàu cũ) nằm cách cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải chỉ 1 km, phù hợp cho các ngành công nghiệp nặng và các ngành phụ thuộc vận tải biển.
KCN Quế Võ II (Bắc Ninh) nằm trong “hành lang điện tử” của Việt Nam, đón nhu cầu từ chuỗi cung ứng liên kết với Trung Quốc.
KCN Hữu Thạnh (Long An) & Tân Phước 1 (Đồng Tháp – Tiền Giang cũ) nằm gần TPHCM và đồng bằng sông Cửu Long, phù hợp cho ngành tiêu dụng, F&B và dược phẩm.
KCN Vinh Quang (Hải Phòng) gần các cảng biển và các cụm công nghệ cao phía Bắc, phù hợp với ngành sản xuất điện - điện tử.
YSVN đánh giá trên thị trường, định giá hấp dẫn với P/B thấp hơn -1 độ lệch chuẩn so với mức trung bình 3 năm, trong bối cảnh: (1) Triển vọng lợi nhuận bền vững, hoạt động cho thuê ổn định, các nguồn thu nhập định kỳ và các dự án mới được phê duyệt. (2) Tỷ suất cổ tức tiền mặt hấp dẫn tạo bộ đệm cho rủi ro giảm giá. Dù tỷ lệ chi trả cổ tức tiền mặt có khả năng giảm, IDC vẫn duy trì mức tỷ suất cổ tức khoảng 5.3%, giữ vị thế là cổ phiếu phòng thủ trong nhóm bất động sản KCN.
IDC vẫn là một cổ phiếu hấp dẫn về lợi suất mặc dù tỷ lệ chi trả cổ tức tiền mặt năm 2025 có khả năng giảm. IDC đã chi trả cổ tức tiền mặt 3,000-4,000 đồng/cp, tương đương tỷ suất cổ tức 7%- 8% trong giai đoạn 2021-2024. Năm 2025, IDC có kế hoạch chi trả cổ tức 35%/mệnh giá, trong đó một phần sẽ được trả bằng cổ phiếu, phần còn lại sẽ bằng tiền mặt. Ban lãnh đạo cho biết việc giảm tỷ trọng tiền mặt nhằm tích lũy vốn cho các dự án KCN mới được phê duyệt.
Dù tỷ trọng cổ tức tiền mặt giảm so với các năm trước, mức tỷ suất cổ tức tiền mặt 5.3% theo dự phóng của YSVN, vẫn cao hơn mức trung bình ngành là 3% (tính theo mức chi trả cổ tức tiền mặt năm 2024 của các cổ phiếu BĐS KCN).
Với những đánh giá trên, YSVN khuyến nghị mua IDC với giá mục tiêu 50,400 đồng/cp.
Thượng Ngọc
FILI - 10:38:46 08/12/2025
Doanh thu 11 tháng của CTCP Đầu tư và Thương mại TNG tăng 10% và gần chạm kế hoạch năm, đồng thời vượt mọi mốc doanh thu từng có.
TNG ước tính doanh thu 11 tháng đầu năm 2025 đạt 7,994 tỷ đồng, tăng 756 tỷ đồng -tương đương 10% so với cùng kỳ. Con số này tương đương 99% kế hoạch năm, vượt toàn bộ doanh thu thường niên trong lịch sử hoạt động, đồng thời tiếp tục thiết lập đỉnh mới sau 4 năm liên tục phá kỷ lục.
Theo báo cáo cập nhật của Chứng khoán FPT (FPTS), doanh thu năm 2025 của TNG được dự phóng đạt 8,275 tỷ đồng, tăng 8% so với năm trước và vượt kế hoạch nhưng triển vọng ngắn hạn chậm lại do nhu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ suy yếu.
FPTS cho rằng quan hệ hợp tác tăng cường với khách hàng lớn Decathlon là yếu tố then chốt giúp TNG duy trì đơn hàng ổn định trong bối cảnh ngành dệt may đối mặt nhiều thách thức. Dự báo doanh thu năm 2026 của TNG đạt 8,699 tỷ đồng, tăng 5% so với 2025. Trong đó, thị trường EU được kỳ vọng đạt 3,204 tỷ đồng, tăng 9%, và thị trường Mỹ ước đạt 4,256 tỷ đồng, tăng 3%.
Trên sàn HNX, giá cổ phiếu TNG giảm gần 17% trong 1 năm qua, xuống còn 18,800 đồng/cp trong phiên sáng 02/12, với thanh khoản bình quân gần 1.4 triệu cp/ngày. Thị trường từng chứng kiến cú giảm mạnh do ảnh hưởng từ chính sách thuế quan Mỹ, thị giá TNG cũng rơi về vùng đáy 13,000 đồng/cp vào đầu tháng 4/2025 trước khi phục hồi về mức hiện tại.
Diễn biến giá cổ phiếu TNG từ đầu năm 2025 đến nay
Tùng Phong
FILI - 11:09:33 02/12/2025

Sau 3 tháng bán ròng đỉnh điểm, khối ngoại đã thu hẹp đáng kể quy mô bán ròng trong tháng 11 về gần 7.2 ngàn tỷ đồng, giúp giảm áp lực cho VN-Index trên quá trình hồi phục lên 1,690.99 điểm - mức đóng cửa cao nhất theo tháng từng được ghi nhận.
Trong tháng 11, khối ngoại mua vào gần 49 ngàn tỷ đồng và bán ra gần 56.2 ngàn tỷ đồng trên HOSE, thu hẹp quy mô so với các tháng trước đó, trong bối cảnh giá trị giao dịch bình quân trên sàn cũng giảm còn khoảng 22.7 ngàn tỷ đồng/phiên (bình quân 4 tháng trước đó khoảng 38 ngàn tỷ đồng/phiên).
Kết quả, khối ngoại bán ròng gần 7.2 ngàn tỷ đồng, đánh dấu tháng bán ròng thứ 9 tính từ đầu năm 2025 và lập chuỗi bán ròng 4 tháng liên tiếp, nâng mức lũy kế bán ròng từ đầu năm vượt 113 ngàn tỷ đồng.
STB là cổ phiếu bị bán ròng nhiều nhất tháng với hơn 2.1 ngàn tỷ đồng, theo sau là VCI gần 1.4 ngàn tỷ đồng, MBB gần 1.2 ngàn tỷ đồng và VRE hơn 1 ngàn tỷ đồng. Ở chiều mua ròng, FPT dẫn đầu với hơn 1.8 ngàn tỷ đồng, tiếp đến là HPG hơn 1.7 ngàn tỷ đồng và VNM hơn 1.6 ngàn tỷ đồng.
Trên HNX, khối ngoại bán ròng hơn 55 tỷ đồng trong tháng 11, nhìn chung khá nhẹ nhàng. Các cổ phiếu bị bán ròng nhiều nhất là CEO gần 332 tỷ đồng và SHS gần 73 tỷ đồng, trong khi dẫn đầu danh sách mua ròng là PVS hơn 445 tỷ đồng và IDC hơn 57 tỷ đồng.
Dù tiếp tục bị khối ngoại bán ròng, giới đầu tư lại nhanh chóng nhận ra nhiều tín hiệu lạc quan. Đầu tiên phải nói đến quy mô bán ròng đã giảm đáng kể sau 3 tháng đỉnh điểm trước đó với tổng quy mô hơn 76 ngàn tỷ đồng trên HOSE. Hay trong 4 phiên mua ròng ít ỏi của tháng 11 thì có đến 3 phiên diễn ra ở giai đoạn cuối tháng, đi kèm hành động bán ròng nhẹ nhàng hơn, cho thấy diễn biến dần tích cực để cởi bỏ phần nào áp lực lên thị trường.
Tổng hòa nhiều yếu tố hỗ trợ, VN-Index liên tục hồi phục và chốt tháng 11 tại 1,690.99 điểm - mức đóng cửa cao nhất theo tháng từng được ghi nhận.
Nhiều yếu tố ủng hộ kịch bản mua ròng trở lại từ năm 2026
Nhìn lại giai đoạn bán ròng “khủng” vừa qua và đánh giá nhiều yếu tố tác động trọng yếu trong thời gian tới, các chuyên gia đồng thuận về một kịch bản tích cực hơn sẽ sớm xảy ra.
Trao đổi với người viết, ông Lưu Chí Kháng - Trưởng phòng Tự doanh, Chứng khoán Kiến Thiết Việt Nam (CSI) cho rằng, việc khối ngoại liên tục bán ròng trong năm 2025 chủ yếu do diễn biến tỷ giá không thuận lợi, VND mất giá so với USD trong khi USD lại mất giá so với các đồng tiền khác. Theo VietstockFinance, tỷ giá trung tâm tính đến ngày 29/11 ở mức 25,125 VND/USD, tăng gần 3.4% so với đầu năm.
Tuy nhiên, kịch bản Fed hạ lãi suất xuống 3.5 - 3.75% trong tháng 12 ngày càng trở nên rõ ràng, nằm trong chu trình hạ lãi suất kéo dài sang năm 2026. Điều này được ông Kháng đánh giá sẽ hỗ trợ cho tỷ giá, mở ra không gian để Chính phủ Việt Nam duy trì chính sách tiền tệ để nới lỏng, tạo tâm lý tích cực cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Ngoài ra, sau khi liên tục bán ròng mà đỉnh điểm là hành động chốt lời trong giai đoạn thị trường tạo đỉnh những tháng gần đây, hiện tỷ lệ nắm giữ của khối ngoại chỉ còn xấp xỉ 14 - 15%, cho thấy dư địa bán ròng không còn nhiều.
Đặt trong bức tranh sáng của nền kinh tế Việt Nam năm 2026 với kỳ vọng GDP tăng trưởng hai chữ số, lạm phát được kiểm soát, tỷ giá thuận lợi hơn và thị trường chứng khoán được nâng hạng, ông Kháng dự báo khối ngoại sẽ sớm đưa Việt Nam trở lại danh mục mua ròng.
Thông thường, các quỹ ngoại sẽ họp để đưa ra kế hoạch ngay từ đầu năm, sau đó khoảng một tháng mới bắt đầu tái cơ cấu mạnh. Do đó, kịch bản thị trường Việt Nam được mua ròng trở lại từ quý 1/2026 là khá cao.
Còn theo ông Nguyễn Hồng Điệp - Sáng lập, Tổng Giám đốc CTCP Vick, xu hướng bán ròng mạnh những năm qua do dòng tiền dịch chuyển sang các thị trường có hiệu suất tốt hơn, đặc biệt là Mỹ. Tuy nhiên, xu hướng rất có thể đảo chiều sang mua ròng trong năm 2026.
Căn cứ theo lộ trình nâng hạng, ông Điệp dự báo khối ngoại sẽ chuyển trạng thái sang mua ròng vào khoảng tháng 2 (trước Tết Âm lịch), thậm chí lớn hơn nữa kể từ tháng 9, mở ra chu kỳ mua ròng rất mạnh và rất dài.
Có thể thấy, kịch bản khối ngoại đảo chiều mua ròng trong năm 2026 đang nhận được nhiều sự đồng tình từ các chuyên gia.
Còn trong ngắn hạn, sự kiện Fed hạ lãi suất trong tháng 12 đang được giới đầu tư đặt nhiều kỳ vọng sẽ tạo ra cú hích lớn. Dù vậy, dưới góc nhìn thận trọng, ông Nguyễn Hồng Điệp cho rằng sự kiện này chỉ tác động về tâm lý chứ không phải dòng tiền.
Cụ thể, chính sách nới lỏng tiền tệ trong năm 2026 và đặc biệt tại kỳ họp gần nhất của Fed là điều mà các nhà đầu tư Mỹ trông đợi, nhưng tác động đến dòng tiền trên thị trường chứng khoán Việt Nam lại khó xảy ra, thay vào đó chỉ mang ý nghĩa tâm lý rằng khi thị trường Mỹ tiếp tục thăng hoa thì không cớ gì thị trường Việt Nam lại giảm.
“Thị trường đang hồ hởi với khả năng Fed tiếp tục hạ lãi suất, nhưng có lẽ chúng ta nên nhìn nhận một cách tỉnh táo hơn” - ông Điệp chia sẻ.
Còn theo quan điểm của ông Lưu Chí Kháng, khả năng thông tin tích cực từ việc hạ lãi suất của Fed sẽ được phản ánh dần vào thị trường cho đến thời điểm chính thức công bố vào tháng 12, nhưng diễn biến ngắn hạn sau đó chưa thể khẳng định.
Huy Khải
FILI - 10:07:54 02/12/2025



Danh sách doanh nghiệp mất chuẩn đại chúng rời sàn tiếp tục nối dài trong nửa cuối năm 2025, trong bối cảnh loạt ông lớn đổ bộ lên sàn qua các thương vụ IPO quy mô lớn.
Từ tháng 6/2025 đến nay, thị trường chứng khoán chứng kiến loạt doanh nghiệp làm thủ tục rời sàn trên nhiều phương diện khác nhau.
Có đơn vị buộc phải rời do không còn đáp ứng tiêu chí vốn và cơ cấu cổ đông theo quy định mới; có trường hợp rời sàn vì thua lỗ kéo dài, vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin; nhưng cũng xuất hiện doanh nghiệp muốn rời sàn dù kết quả kinh doanh vẫn tích cực.
Nhìn chung, phần lớn trong nhóm doanh nghiệp phải rời sàn chứng khoán do cơ cấu cổ đông cô đặc (chiếm hơn 90%) khiến tỷ lệ cổ đông nhỏ lẻ giảm mạnh; cùng với đó vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu dưới 30 tỷ đồng, đã không còn đáp ứng điều kiện tối thiểu để được công nhận là công ty đại chúng.
Theo Thông tư 19/2025/TT-BTC và Luật Chứng khoán sửa đổi năm 2024, điều kiện để duy trì tư cách công ty đại chúng đã siết chặt rõ rệt. Cụ thể, Doanh nghiệp phải có vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu tối thiểu 30 tỷ đồng. Đồng thời, ít nhất 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết phải do tối thiểu 100 nhà đầu tư nhỏ nắm giữ, không bao gồm các cổ đông lớn. Quy định này nhằm đảm bảo tính phân tán cổ đông, hạn chế tình trạng tập trung quyền lực và tăng cường minh bạch trên thị trường.
Nhóm cổ đông lớn chiếm trên 90% vốn
Hiện một số doanh nghiệp đang trong quá trình làm thủ tục, xin ý kiến cổ đông hủy tư cách đại chúng, đây cũng là hệ quả tất yếu của việc không đáp ứng điều kiện pháp lý, thay vì chờ bị buộc rời sàn.
Điển hình như CTCP Bao bì Biên Hòa (Sovi, HOSE: SVI) chuẩn bị họp ĐHĐCĐ bất thường vào giữa tháng 12/2025 nhằm trình phương án hủy tư cách công ty đại chúng và lộ trình hủy niêm yết. Cơ cấu cổ đông SVI đến ngày 18/11/2025 cho thấy TCG Solutions Pte. Ltd., đơn vị thuộc Thai Containers Group - Công ty thành viên Tập đoàn SCG (Thái Lan), nắm 94.11% vốn; phần còn lại 5.89% không đáp ứng yêu cầu tối thiểu về số lượng và tỷ lệ cổ đông nhỏ lẻ theo quy định.
Hay Tổng Công ty Khoáng sản TKV - CTCP (Vimico, HNX: KSV) vẫn chưa đạt điều kiện tối thiểu về cơ cấu cổ đông. Với vốn điều lệ 2,000 tỷ đồng nhưng Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đang nắm hơn 96% vốn, khiến cơ cấu cổ đông bị tập trung gần như tuyệt đối. Nguy cơ hủy tư cách đại chúng có thể xảy ra từ đầu năm 2026 nếu Doanh nghiệp không được chấp thuận cơ chế đặc thù.
Tại Bibica , Tập đoàn PAN hiện đang là công ty mẹ sở hữu trực tiếp 98.3% vốn BBC. Theo lộ trình, sau khi UBCKNN ra thông báo về việc hủy tư cách đại chúng, HOSE sẽ thực hiện hủy đăng ký niêm yết cổ phiếu BBC. Sau đó, Công ty sẽ tiến hành thủ tục hủy đăng ký chứng khoán tại VSDC.
Đầu tháng 11/2025, cổ đông CTCP Đầu tư Nước sạch Sông Đà đã thông qua hủy tư cách công ty đại chúng và hủy đăng ký giao dịch cổ phiếu. Hai cổ đông lớn nắm hơn 98% vốn VCW gồm CTCP Hạ tầng GELEX 62.46% và Công ty TNHH Nước sạch REE 35.95%.
Tương tự, Tổng Công ty Công Nghiệp Dầu Thực Vật Việt Nam (Vocarimex, UPCoM: VOC) và CTCP Phát triển Công trình Viễn thông cũng đang trong quá trình làm thủ tục hủy tư cách công ty đại chúng.
Trong khi đó, hơn 10.1 triệu cp CTCP Vang Thăng Long (UPCoM: VTL) đã bị hủy đăng ký giao dịch vào ngày 10/10/2025, sau khi VTL hủy tư cách công ty đại chúng theo quyết định của UBCKNN ngày 17/09, vì cơ cấu cổ đông không còn đáp ứng quy định tối thiểu 10% cổ phần do ít nhất 100 nhà đầu tư nhỏ nắm giữ, trong khi vốn chủ sở hữu tại ngày 31/12/2024 chỉ còn hơn 5 tỷ đồng, thấp hơn nhiều so với mức 30 tỷ đồng theo luật định.
CTCP Giày da và May mặc Xuất khẩu (Legamex, UPCoM: LGM) cũng chính thức rời sàn ngày 05/09, bị hủy tư cách công ty đại chúng ngày 05/08/2025, do nhóm cổ đông lớn nắm tới 90.7% cổ phần và vốn chủ sở hữu cuối năm 2024 âm gần 79 tỷ đồng.
Danh sách doanh nghiệp không đáp ứng tiêu chí cơ cấu cổ đông
Vốn điều lệ dưới 30 tỷ đồng
HNX mới đây cảnh báo Xi măng Thái Bình nguy cơ hủy niêm yết khi vốn điều lệ chỉ 15 tỷ đồng.
Công trình Đô thị Gò Công (UPCoM: MTX) bị hủy đăng ký giao dịch toàn bộ 645,000 cổ phiếu kể từ ngày 22/09/2025, do vốn điều lệ chỉ 6.45 tỷ đồng dù mới lên sàn hơn một năm.
Tương tự, CTCP Sách và Thiết bị Bình Thuận (HNX: BST) có vốn điều lệ 11 tỷ đồng, dẫn đến hủy niêm yết từ 29/08.
Các doanh nghiệp như CTCP Sách và Thiết bị Bình Định (OTC: BDB), CTCP Công trình Đô thị Bảo Lộc (DTB), CTCP In sách giáo khoa tại Thành phố Hà Nội (TPH) và CTCP Công trình Công cộng và Dịch vụ Du lịch Hải Phòng (Haputou, UPCoM: CDH) đều rơi vào tình huống tương tự khi vốn điều lệ nhỏ, cơ cấu cổ đông không đáp ứng điều kiện và buộc phải rời sàn.
Danh sách doanh nghiệp không đáp ứng tiêu chí vốn
Rời sàn do vi phạm
Bên cạnh nhóm mất chuẩn, một số doanh nghiệp rời sàn vì tình trạng tài chính suy yếu kéo dài hoặc vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin.
Đơn cử như CTCP Đầu tư và Phát triển Xây dựng (Investco, UPCoM: ING) bị hủy đăng ký giao dịch toàn bộ hơn 20.8 triệu cp vào ngày 24/11/2025, trong bối cảnh mã này bị hạn chế giao dịch và lỗ kỷ lục 232 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm. Lỗ lũy kế đến cuối tháng 9/2025 gần 545 tỷ đồng, khiến vốn chủ âm hơn 289 tỷ đồng.
Sông Đà 27 (UPCoM: S27) bị hủy giao dịch gần 1.6 triệu cổ phiếu sau khi mất tư cách đại chúng ngày 03/10/2025. Trước đó, doanh nghiệp đã bị đình chỉ giao dịch vì không có biện pháp khắc phục việc bị đưa vào diện hạn chế, do không tổ chức ĐHĐCĐ thường niên trong hai năm tài chính liên tiếp.
Điều tương tự cũng xảy ra tại CTCP Phòng cháy Chữa cháy và Đầu tư Xây dựng Sông Đà (UPCoM: SDX) và CTCP Sản xuất và Thương mại Tùng Khánh (UPCoM: TKG).
Vi phạm nghĩa vụ công bố thông tinNguồn: Người viết tổng hợp
Trong khi đó, có doanh nghiệp tự nguyện rời sàn. Tổng CTCP Đầu tư Xây dựng và Thương mại Việt Nam (CTX Holdings, UPCoM: CTX) thông qua chủ trương phi đại chúng hóa doanh nghiệp theo quy định.
Động thái này diễn ra ngay sau khi doanh nghiệp công bố kết quả kinh doanh quý 3, với lợi nhuận ròng cao kỷ lục hơn 216 tỷ đồng, gấp 98 lần cùng kỳ, nhờ chuyển nhượng dự án đất vàng 3 mặt tiền tại Hà Nội.
Tập đoàn HIPT (UPCoM: HIG) cũng xin rời sàn theo đề xuất của chính doanh nghiệp là một trong các nội dung được thông qua tại ĐHĐCĐ 2025 của HIG.
Sự sàng lọc là tất yếu của thị trường
Theo ông Nguyễn Thế Minh - Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển khách hàng cá nhân của Chứng khoán Yuanta Việt Nam, một phần nguyên nhân khiến nhiều doanh nghiệp phải rời sàn do tình hình hoạt động không hiệu quả. Điều này khiến các doanh nghiệp thu hẹp dần vốn chủ sở hữu, thậm chí rơi vào tình trạng âm vốn chủ sở hữu, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải chịu áp lực lớn từ nghĩa vụ của một công ty đại chúng, bao gồm các quy định về số lượng cổ đông, tỷ lệ nắm giữ và việc thực hiện báo cáo theo quy trình. Sau một thời gian, họ cảm thấy mô hình doanh nghiệp đại chúng không còn phù hợp.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp không nhận thấy lợi ích trong việc huy động vốn trên thị trường. Thậm chí, việc niêm yết còn gây rủi ro biến động tài sản cho nhóm cổ đông lớn, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, khiến bị thiệt hại hơn là có lợi, nên phải rút lui.
Đối với doanh nghiệp bị hủy tư cách đại chúng do vi phạm công bố thông tin, ông Minh cho biết chi phí phạt hàng năm của UBCKNN đối với các doanh nghiệp niêm yết vi phạm là rất lớn. Luật pháp đang ngày càng khắt khe hơn, theo hướng minh bạch và phát triển thị trường vốn bền vững, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, đặc biệt là cổ đông nhỏ lẻ. Vì vậy, khi niêm yết, doanh nghiệp bắt buộc phải tuân thủ Luật Chứng khoán.
Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp không quan tâm đến trách nhiệm của mình đối với cổ đông, thường hoạt động theo mô hình gia đình và không nhận thấy nghĩa vụ phải thực hiện các yêu cầu của doanh nghiệp đại chúng.
Ngoài ra, để tuân thủ về quản trị công ty và công bố thông tin, cần người am hiểu sâu về Luật Chứng khoán. “Các doanh nghiệp nhỏ không đủ chi phí để duy trì đội ngũ chuyên trách như các doanh nghiệp lớn, dẫn đến dễ bị thiếu sót và sai phạm”, ông Minh nói.
Làn sóng IPO sẽ còn sôi động hơn
Trái ngược với xu hướng rời sàn, hoạt động IPO đang sôi động với nhiều thương vụ lớn, điển hình như Vinpearl , Chứng khoán Kỹ Thương T, hay Hạ tầng GELEX và Nông nghiệp Hòa Phát (HPA) cũng vừa được UBCKNN cấp giấy chứng nhận đăng ký chào bán lần đầu ra công chúng.
Ông Minh cho rằng thời gian tới thị trường còn đón nhận thêm nhiều thương vụ IPO lớn, trong đó có cả doanh nghiệp Nhà nước. Nhà đầu tư cá nhân vẫn là lực lượng đông đảo nhất, nhưng dòng vốn dẫn dắt sẽ nghiêng về nhà đầu tư tổ chức trong nước, còn khối ngoại tiếp tục đóng vai trò xúc tác.
Về triển vọng ngành nghề, ông đánh giá nhóm tài chính và bất động sản vẫn giữ vị trí quan trọng trong dài hạn nhưng tỷ trọng có thể giảm dần, khi nhóm viễn thông và sản xuất tiêu dùng ngày càng mở rộng.
Thanh Tú
FILI - 09:22:26 02/12/2025


Tuần giao dịch từ 17-21/11/2025 cho thấy, lượng bán cổ phiếu ra áp đảo ở chiều đăng ký. Trong đó, đáng chú ý tại UNI khi loạt dàn lãnh đạo và người thân Công ty đồng loạt thoái vốn mà chưa rõ nguyên nhân.
FPT Telecom hoàn tất chuyển giao hơn 50% vốn Nhà nước
Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) đã bán toàn bộ gần 370.7 triệu cp, tương ứng 50.17% vốn tại CTCP Viễn thông FPT (FPT Telecom, UPCoM: FOX) trong ngày 11/11, với mục đích chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại FPT Telecom từ SCIC về Bộ Công an, theo biên bản ký ngày 16/07/2025.
Đây được xem là bước thủ tục sau cùng trong tiến trình Bộ Công an tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại FPT Telecom. Sau chuyển giao, toàn bộ phần vốn Nhà nước tại FPT Telecom sẽ do Bộ Công an quản lý, trong khi cổ đông lớn còn lại là CTCP FPT đang nắm 45.66% vốn.
Hai con gái Chủ tịch HTL chuyển nhượng hết cổ phần cho mẹ
Hai chị em Lã Ngọc Đan Chinh và Lã Ngọc Đan Thanh, con của ông Lã Văn Trường Sơn - Giám đốc điều hành CTCP Kỹ thuật và Ô tô Trường Long và bà Nguyễn Thị Kiều Diễm - Chủ tịch HĐQT, đã bán lần lượt hơn 362,000 và hơn 284,000cp, tương ứng 3.02% và 2.37% vốn HTL.
Ở hướng ngược lại, bà Nguyễn Thị Kiều Diễm đã mua đúng số lượng 2 con gái bán ra, tổng cộng khoảng 646,000 cp. Sau giao dịch, tỷ lệ sở hữu của bà Diễm tại HTL sẽ tăng thêm 5.38%, lên 30.7%. Sau giao dịch, nhóm cổ đông gia đình lãnh đạo HTL vẫn nắm tổng cộng 63.55% vốn Công ty. Trong đó, bà Lã Thị Thanh Phương, chị ruột của ông Sơn và hiện là Phó Giám đốc HTL, sở hữu 1.97% vốn.
Biwase nâng sở hữu tại VLW lên gần 34%
Tổng công ty Nước - Môi trường Bình Dương (Biwase, HOSE: BWE) cho biết đã hoàn tất mua thêm 2.63 triệu cp của CTCP Cấp nước Vĩnh Long (UPCoM: VLW) theo kế hoạch đề ra. Giao dịch thực hiện trong phiên 14/11, giá trị sang tay gần 66 tỷ đồng.
Sau giao dịch, tỷ lệ sở hữu của Biwase tại VLW tăng từ 24.57% (7.1 triệu cp) lên 33.65% (9.73 triệu cp), tiếp tục giữ vị trí cổ đông lớn thứ 2, sau cổ đông chi phối là UBND tỉnh Vĩnh Long (51% vốn).
Đợt tăng sở hữu của Biwase diễn ra đồng thời với việc công ty con là CTCP Xây lắp - Điện BIWASE đăng ký bán thỏa thuận toàn bộ cổ phiếu VLW nắm giữ, tương đương 9.1% vốn, trong thời gian từ 30/10-26/11. Sau giao dịch, đơn vị này sẽ không còn là cổ đông của VLW.
Trước đó, trong phiên 21/5/2025, Biwase và công ty thành viên này cũng thực hiện thương vụ thỏa thuận gần 178 tỷ đồng, trong đó Xây lắp - Điện BIWASE chuyển nhượng 7.1 triệu cp VLW (24.57% vốn) cho Biwase. Như vậy, thông qua 2 giao dịch thỏa thuận với tổng giá trị khoảng 244 tỷ đồng, Biwase đã nâng sở hữu lên gần 34% vốn VLW, chủ yếu từ việc nhận chuyển nhượng cổ phần của đơn vị thành viên.
MBCapital muốn bán hết cổ phiếu MIG để chuyển trả tài sản ủy thác
Ngày 17/11, CTCP Quản lý Quỹ đầu tư MB (MBCapital) thông báo kế hoạch bán toàn bộ hơn 3 triệu cp Tổng CTCP Bảo hiểm Quân Đội (MIC, HOSE: MIG) nắm giữ, tương ứng tỷ lệ 1.43%, nhằm chuyển trả tài sản ủy thác cho khách hàng, dự kiến thực hiện ngày 25/11-23/12,
Kết phiên 18/11, thị giá MIG đạt 17,500 đồng/cp, tăng gần 8% so với đầu năm 2025. Nếu xét theo giá thị trường, quy mô giao dịch có thể lên đến 53 tỷ đồng.
Ái nữ nhà Chủ tịch PC1 dự chi hơn 90 tỷ để gom mạnh 4 triệu cp
Bà Trịnh Khánh Linh, con gái ông Trịnh Văn Tuấn - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn PC1, đăng ký mua mới 4 triệu cp PC1 trong thời gian từ 20/11-18/12. Sau giao dịch, bà Linh dự kiến nâng tỷ lệ sở hữu lên 1.118%. Ông Tuấn hiện nắm gần 76.5 triệu cp, tương đương 21.382% vốn, và là cổ đông lớn nhất tại PC1.
Tạm tính theo mức giá 22,550 đồng/cp chốt ngày 17/11, thương vụ gom mới của bà Linh có giá trị hơn 90 tỷ đồng.
Loạt lãnh đạo và người thân thoái toàn bộ vốn tại UNI
Bà Vũ Thị Như Mai - Tổng Giám đốc CTCP Đầu Tư Và Phát Triển Sao Mai Việt đăng ký bán toàn bộ hơn 3.4 triệu cp UNI đang nắm giữ (tương đương 8.09% vốn) nhằm cân đối tài chính cá nhân. Giao dịch dự kiến diễn ra từ ngày 19/11 - 12/12.
Bà Mai đăng ký thoái vốn diễn ra chỉ 1 ngày sau khi loạt lãnh đạo cùng người thân UNI đăng ký bán hết cổ phiếu. Trong đó, ông Vũ Thanh Thủy - Thành viên BKS, bà Nguyễn Thị Lệ Thanh - mẹ của ông Thủy, Ủy viên HĐQT - đăng ký bán toàn bộ cổ phần nắm giữ, lần lượt 1.42 triệu cp và hơn 605 ngàn cp. Cùng với đó, cha và em gái ông Thủy là ông Vũ Duy Bé và bà Vũ Thanh Thảo cũng muốn thoái toàn bộ vốn, lần lượt hơn 1.5 triệu cp và gần 1.38 triệu cp.
Chị bà Mai là bà Vũ Thị Kim Liên, cũng đăng ký thoái tất cả vốn tại UNI (hơn 1.08 triệu cp, tương đương tỷ lệ 2.54%).
Các giao dịch dự kiến diễn ra từ 18/11 - 12/12, và đều vì mục đích như Tổng Giám đốc UNI là cân đối tài chính cá nhân. Hiện chưa rõ lý do vì sao dàn lãnh đạo và người thân Công ty đồng loạt thoái vốn.
Danh sách lãnh đạo công ty và người thân giao dịch từ ngày 17-21/11/2025
Danh sách lãnh đạo công ty và người thân đăng ký giao dịch từ ngày 17-21/11/2025
Thanh Tú
FILI - 14:00:00 24/11/2025

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của hệ thống ngân hàng tiếp tục xu hướng phục hồi trong quý 3. Việc nợ xấu được kiểm soát tốt giúp các ngân hàng có thêm thời gian để bồi đắp bộ đệm sau giai đoạn sụt giảm mạnh lúc trước. Mỗi ngân hàng thực hiện các chính sách trích lập dự phòng khác nhau dựa trên định hướng chiến lược riêng, từ đó tạo nên sự phân hóa trong chính sách trích lập dự phòng giữa các nhóm.
Trong quý 3, các ngân hàng tiếp tục duy trì sự chủ động trong việc củng cố khả năng hấp thụ rủi ro. Song, chi phí dự phòng chỉ tăng ở mức thấp, cho thấy áp lực bổ sung dự phòng chưa lớn. Mặt khác, điều này cũng thể hiện những ưu tiên nguồn lực của ngân hàng vào các mục tiêu tăng trưởng khác, hơn là mở rộng trích lập dự phòng.
Báo cáo tài chính quý 3/2025 mang đến cái nhìn rõ nét hơn về tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của hệ thống ngân hàng, với những tín hiệu tích cực sau khi ngành bước qua giai đoạn khó khăn nhất liên quan đến chất lượng danh mục cho vay. Tốc độ hình thành nợ xấu đã giảm đáng kể, góp phần hạ nhiệt áp lực lên bộ đệm dự phòng. Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang được đẩy mạnh, các ngân hàng vẫn ưu tiên phân bổ nguồn lực cho mở rộng cho vay, chi phí dự phòng tiếp tục tăng theo chu kỳ, nhưng không xuất hiện dấu hiệu trích lập mạnh như các giai đoạn căng thẳng trước đó.
Bức tranh chung cũng cho thấy sự phân hóa ngày càng rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng. Nhóm quốc doanh tập trung gia cố lại bộ đệm, phản ánh chiến lược tăng bộ đệm phòng thủ sau giai đoạn nợ xấu tăng nhanh. Ngược lại, nhóm ngân hàng bán lẻ và nhóm quy mô nhỏ ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu cải thiện nhờ kiểm soát chặt hơn tốc độ phát sinh nợ xấu và duy trì đà trích lập vừa phải.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng bán buôn lại điều chỉnh giảm tỷ lệ bao phủ trong ngắn hạn do ảnh hưởng từ việc nợ xấu tăng nhanh hơn. Nhìn chung, các ngân hàng vẫn duy trì mức trích lập đều đặn, ưu tiên nâng cao hiệu quả quản trị và xử lý nợ để giảm gánh nặng dự phòng. Điều này phản ánh chiến lược chủ đạo trong quý 3: thay vì tăng mạnh trích lập, các ngân hàng hướng tới giữ bộ đệm ở mức cân bằng - đủ để bảo đảm an toàn hệ thống nhưng không làm ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận của năm.
Đánh giá nợ xấu và mức bao phủ nợ xấu của ngành ngân hàng
Trong quý 3/2025, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) toàn ngành đạt 83.93%, nhích lên so với mức 82.54% của cùng kỳ. Quan trọng hơn, so với hai quý đầu năm, tỷ lệ này đã cải thiện rõ rệt khi tăng từ mức 79.32% của quý 2.
Để lý giải biến động của tỷ lệ LLR, cần phân tích hai cấu phần chính: số dư dự phòng đã trích lập trong kỳ, và diễn biến quy mô nợ xấu. Về nợ xấu, tổng nợ xấu của các ngân hàng niêm yết tăng 8.1% so với cùng kỳ - một mức tăng đã chậm lại rõ rệt so với các năm 2022-2024. Ở chiều ngược lại, quy mô dự phòng nợ xấu đã đạt khoảng 230,000 tỷ đồng, tương ứng tăng 9.9% so với cùng kỳ và 11.3% so với đầu năm. Đây là mức tăng cao so với tốc độ trung bình 8% từ năm 2023 đến nay.
Để nâng bộ đệm dự phòng, riêng trong quý 3, ngành ngân hàng đã trích lập thêm hơn 35,500 tỷ đồng. Đáng chú ý, dự phòng chung tăng mạnh 14.85% so với cuối năm 2024 (tương đương 20.7% YoY), trong khi dự phòng cụ thể chỉ tăng khoảng 8.64% (tương đương 2.8% YoY).
Khác với giai đoạn 2021-2022 khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhưng phần tăng dự phòng chủ yếu đến từ bổ sung dự phòng cụ thể (phản ánh chất lượng tài sản xấu đi) đợt tăng dự phòng hiện tại mang tính phòng thủ và củng cố bộ đệm, hơn là phát sinh các vấn đề mới về chất lượng tín dụng. Điều này cho thấy các ngân hàng đang chủ động chuẩn bị cho chu kỳ tín dụng tăng nhanh và các rủi ro tiềm ẩn có thể xuất hiện trong giai đoạn cao điểm cuối năm.
Diễn biến tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành
Đối với bao phủ nợ xấu, khối ngân hàng quốc doanh là nhóm có tỷ lệ LLR cao nhất hệ thống. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu trong quý 3 đạt 139.1%, thấp hơn đáng kể so với 164.5% của năm 2024 và 188.46% của năm 2023, do tác động từ nợ xấu tăng mạnh trong các quý trước. Tuy vậy, nếu nhìn theo chiều ngang từng quý trong năm, bộ đệm của nhóm lại đang tăng trở lại rõ rệt, từ mức 132% của quý 1 và 126% của quý 2 lên gần 140% trong quý 3. Sự phục hồi này xuất phát từ việc xử lý nợ xấu hiệu quả hơn khi tốc độ tăng nợ xấu đã chậm lại trong kỳ, đồng thời số dư dự phòng chung tiếp tục được củng cố với mức tăng 16-17% so với cùng kỳ.
Ở khối ngân hàng tư nhân, diễn biến tương đối tích cực. Nhóm ngân hàng bán lẻ ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng từ 61.84% lên 64.4%, nhờ nợ xấu chỉ tăng 8.5% so với cùng kỳ - mức thấp nhất kể từ đầu năm 2022. Đây là tín hiệu cho thấy áp lực chất lượng tài sản của nhóm đang dần hạ nhiệt.
Nhóm ngân hàng khác đạt tỷ lệ bao phủ khoảng 41.87%, mức cao nhất trong ba năm gần đây, phản ánh nỗ lực củng cố dự phòng sau giai đoạn căng thẳng từ năm 2023. Dù vậy, nhóm này vẫn còn cách khá xa mức trung bình 65% trước đại dịch và cần tiếp tục tăng cường dự phòng để tiệm cận ngưỡng an toàn trước đây.
Ngược lại, nhóm ngân hàng bán buôn ghi nhận xu hướng kém khả quan hơn. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ 69.54% của cùng kỳ xuống 65.7%, dù chi phí dự phòng trong quý 2 và quý 3 đã được đẩy mạnh, tăng hơn 50% YoY. Nguyên nhân chính là quy mô nợ xấu của nhóm tăng tới 25% YoY, khiến nỗ lực gia tăng dự phòng chưa đủ để bù đắp áp lực chất lượng tài sản. Diễn biến này cho thấy phân hóa rõ nét trong hệ thống, khi một số nhóm ngân hàng đã bước vào giai đoạn phục hồi bộ đệm, trong khi nhóm bán buôn cần đẩy mạnh hơn hiệu quả quản trị nợ xấu.
Diễn biến mức bao phủ nợ xấu của từng ngân hàng
Diễn biến quý 3 cho thấy sự phân hóa rõ rệt khi chỉ khoảng một nửa số ngân hàng cải thiện được tỷ lệ bao phủ nợ xấu, trong khi phần còn lại đi xuống so với cùng kỳ.
Ở nhóm quốc doanh, VCB tiếp tục dẫn đầu hệ thống với tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức 201.86%. Việc đẩy mạnh trích lập chi phí dự phòng của VCB trong kỳ (+138.2% YoY) cho thấy những nỗ lực tái cơ cấu lại bộ đệm dự phòng sau giai đoạn giảm mạnh trong những năm qua để duy trì mức lợi nhuận khi NIM sụt giảm mạnh.
BID cũng ghi nhận mức giảm mạnh của bộ đệm, từ 115.73% xuống 94.53%, phần lớn do nợ nhóm 5 tăng đột biến hơn 45% so với đầu năm. Điều này buộc BID phải tăng tốc trích lập trong hai quý gần đây để bù đắp áp lực rủi ro gia tăng.
Ngược lại, CTG cải thiện đáng kể tỷ lệ bao phủ nợ xấu từ 153.01% lên 176.48%, nhờ quy mô nợ xấu giảm so với cùng kỳ và so với quý trước. Với số dư dự phòng tích lũy trước đó và tỷ lệ nợ xấu duy trì ổn định giúp CTG nâng bộ đệm tổng thể, đặc biệt là phần dự phòng chung.
Nhóm ngân hàng bán lẻ chứng kiến sự cải thiện rõ rệt về tỷ lệ bao phủ nợ xấu, thu hẹp khoảng cách với nhóm bán buôn trong năm nay. Đáng chú ý là STB, tỷ lệ LLR tăng vọt lên 93.26% trong quý 3, từ 75% của quý trước, chủ yếu nhờ bổ sung mạnh vào dự phòng cụ thể. Điều này diễn ra trong bối cảnh nợ xấu của STB tiếp tục tăng lên 2.75%, cao hơn mức 2.5% của quý 2 và cùng kỳ, trong khi nợ nhóm 5 chiếm gần 70% tổng nợ xấu, tạo áp lực buộc ngân hàng phải củng cố dự phòng.
ACB, TPB và VPB cũng cải thiện tỷ lệ bao phủ, ghi nhận lần lượt 84.02%, 61.22% và 55.05% trong quý 3. Ngược lại, VIB giảm gần 8% so với cùng kỳ, do mức trích lập tương đương cùng kỳ trong khi quy mô nợ xấu tăng nhẹ, khiến bộ đệm chung bị mỏng đi tương đối.
Diễn biến tỷ lệ bao phủ nợ xấu từng ngân hàng
Đối với nhóm ngân hàng bán buôn, xu hướng suy giảm tỷ lệ bao phủ nợ xấu nhìn chung diễn ra phổ biến. TCB và MBB là hai ngoại lệ hiếm hoi, duy trì được bộ đệm tương đối tốt với tỷ lệ bao phủ lần lượt 119.24% và 79.21%. Bên cạnh việc đáp ứng trích lập dự phòng cụ thể theo quy định, cả hai ngân hàng đều tăng mạnh phần dự phòng chung, trên 20% so với cùng kỳ, cho thấy chiến lược củng cố bộ đệm thận trọng hơn.
Ngược lại, SSB và MSB chứng kiến mức giảm khoảng 9% so với cùng kỳ, trong bối cảnh chi phí dự phòng đi xuống trong khi tổng nợ xấu tăng nhẹ. Đáng chú ý nhất là HDB, nơi tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm mạnh từ 65.87% xuống 43.37% trong quý 3. Sự suy giảm sâu này phản ánh sức ép đáng kể từ phía rủi ro tín dụng, khi nợ xấu lũy kế 9/2025 của HDB tăng tới 66%, vượt xa tốc độ bổ sung dự phòng.
Ở nhóm ngân hàng khác, BAB tiếp tục là ngân hàng nổi bật nhất về chất lượng bộ đệm, duy trì tỷ lệ bao phủ trên 100%, đạt 108.37% trong quý 3. Đây cũng là ngân hàng có nợ xấu thấp nhất nhóm, khi quy mô nợ xấu chỉ tăng khoảng 5% từ đầu năm trong khi số dư dự phòng tăng 16.41%, cho thấy chiến lược trích lập chủ động.
VBB và BVB cũng ghi nhận sự cải thiện rõ rệt, đạt lần lượt 49.95% và 47.17%. Dù chi phí dự phòng không tăng mạnh, hai ngân hàng vẫn mở rộng được bộ đệm nhờ kiểm soát tốt tốc độ tăng nợ xấu, qua đó giảm áp lực trích lập.
Ở chiều ngược lại, VAB và EIB giảm khoảng 5% so với cùng kỳ, chủ yếu do nợ xấu tăng nhanh hơn trong quý 3 trong khi mức tăng dự phòng lại hạn chế, khiến tỷ lệ bao phủ bị thu hẹp đáng kể.
Tổng thể, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng trong quý 3 cho thấy xu hướng cải thiện, chủ yếu nhờ tốc độ tăng trưởng nợ xấu đã hạ nhiệt đáng kể và nhiều ngân hàng tiếp tục bổ sung đều đặn phần dự phòng chung. Tuy nhiên, sự cải thiện này không mang tính đồng đều, khi vẫn có những ngân hàng ghi nhận tỷ lệ bao phủ suy giảm do hiệu quả kiểm soát nợ xấu chưa thực sự rõ nét.
Lê Hoài Ân, CFA
fili - 07:00:00 21/11/2025
Белая этикетка
API данных
Веб-плагины
Создатель Плакатов
План агентства
Риск потерь при торговле такими финансовыми инструментами, как акции, валюта, сырьевые товары, фьючерсы, облигации, ETF и криптовалюты, может быть значительным. Вы можете полностью потерять средства, размещенные у брокера. Поэтому вам следует тщательно взвесить, подходит ли вам такая торговля с учетом ваших обстоятельств и финансовых ресурсов.
Ни одно решение об инвестировании не должно приниматься без проведения тщательной проверки самостоятельно или без консультации с вашими финансовыми консультантами. Наш веб-контент может не подойти вам, поскольку мы не знаем ваших финансовых условий и инвестиционных потребностей. Наша финансовая информация может иметь задержку или содержать неточности, поэтому вы должны нести полную ответственность за любые ваши торговые и инвестиционные решения. Компания не несет ответственности за потерю вашего капитала.
Без разрешения сайта запрещается копировать графику, тексты или торговые марки сайта. Права интеллектуальной собственности на содержание или данные, включенные в этот сайт, принадлежат его поставщикам и торговцам.
Не вошли в систему
Войдите в систему, чтобы получить доступ к дополнительным функциям

Участник FastBull
Пока нет
Покупка
Войти
Зарегистрироваться