マーケット情報
ニュース
分析
ユーザー
7x24
経済カレンダー
NULL_CELL
データ
- 名前
- 最新値
- 戻る












NULL_CELL
NULL_CELL
すべてのコンテスト



メキシコ PPI前年比 (11月)実:--
予: --
戻: --
アメリカ 週間レッドブック商業小売売上高前年比実:--
予: --
戻: --
アメリカ JOLTS 求人情報 (SA) (10月)実:--
予: --
戻: --
アメリカ EIA今年の短期原油生産予測 (12月)実:--
予: --
戻: --
アメリカ EIA による来年の天然ガス生産予測 (12月)実:--
予: --
戻: --
アメリカ EIA 来年の短期原油生産予測 (12月)実:--
予: --
戻: --
EIA 月次短期エネルギー見通し
アメリカ 10年債オークション平均 収率実:--
予: --
戻: --
アメリカ API 週間ガソリン在庫実:--
予: --
戻: --
アメリカ APIウィークリークッシング原油在庫実:--
予: --
戻: --
アメリカ API週間原油在庫実:--
予: --
戻: --
アメリカ API 週間精製石油在庫実:--
予: --
戻: --
韓国 失業率 (SA) (11月)実:--
予: --
戻: --
日本 ロイター短観非製造業指数 (12月)実:--
予: --
戻: --
日本 ロイター短観製造業指数 (12月)実:--
予: --
戻: --
日本 PPI MoM (11月)実:--
予: --
戻: --
日本 国内企業商品価格指数前月比 (11月)実:--
予: --
戻: --
日本 国内企業商品価格指数前年比 (11月)実:--
予: --
戻: --
中国、本土 CPI前年比 (11月)実:--
予: --
戻: --
中国、本土 PPI前年比 (11月)実:--
予: --
戻: --
中国、本土 CPI前月比 (11月)実:--
予: --
戻: --
インドネシア 小売売上高前年比 (10月)実:--
予: --
戻: --
イタリア 工業生産高前年比 (SA) (10月)実:--
予: --
戻: --
イタリア 12 か月の BOT オークションの平均 収率実:--
予: --
戻: --
BOEのベイリー知事が語る
ECBのラガルド総裁が講演
南アフリカ 小売売上高前年比 (10月)実:--
予: --
戻: --
ブラジル IPCAインフレ指数前年比 (11月)実:--
予: --
戻: --
ブラジル CPI前年比 (11月)実:--
予: --
戻: --
アメリカ MBA 住宅ローン申請活動指数 WOW実:--
予: --
戻: --
アメリカ 人件費指数前四半期比 (第三四半期)実:--
予: --
戻: --
カナダ オーバーナイトターゲットレート--
予: --
戻: --
BOC金融政策レポート
アメリカ EIA 週次 ガソリン在庫変動--
予: --
戻: --
アメリカ EIA 生産別週間原油需要予測--
予: --
戻: --
アメリカ EIA 週次 オクラホマ州クッシング原油在庫変動--
予: --
戻: --
アメリカ EIA 週次 原油在庫変動--
予: --
戻: --
アメリカ EIA 週間原油輸入量の推移--
予: --
戻: --
アメリカ EIA の毎週の灯油在庫推移--
予: --
戻: --
アメリカ フェデラルファンド金利予測 - 長期 (第四四半期)--
予: --
戻: --
アメリカ フェデラル・ファンド金利予測 - 初年度 (第四四半期)--
予: --
戻: --
アメリカ フェデラル・ファンド金利予測 - 2 年目 (第四四半期)--
予: --
戻: --
アメリカ FOMC金利下限(翌日物リバースレポ金利)--
予: --
戻: --
アメリカ 予算残高 (11月)--
予: --
戻: --
アメリカ FOMC金利上限(超過準備比率)--
予: --
戻: --
アメリカ 実効超過準備率--
予: --
戻: --
アメリカ フェデラルファンド金利予測 - 現在 (第四四半期)--
予: --
戻: --
アメリカ フェデラルファンド金利目標--
予: --
戻: --
アメリカ フェデラル・ファンド金利予測 - 3 年目 (第四四半期)--
予: --
戻: --
FOMC声明
FOMC記者会見
ブラジル Selic金利--
予: --
戻: --
イギリス 3 か月の RICS 住宅価格指数 (11月)--
予: --
戻: --
オーストラリア 雇用 (11月)--
予: --
戻: --
オーストラリア フルタイム雇用 (SA) (11月)--
予: --
戻: --
オーストラリア 失業率 (SA) (11月)--
予: --
戻: --
オーストラリア 雇用参加率 (SA) (11月)--
予: --
戻: --
イタリア 四半期ごとの失業率 (SA) (第三四半期)--
予: --
戻: --
IEA石油市場レポート
七面鳥 1週間レポ金利--
予: --
戻: --
南アフリカ リフィニティブ IPSOS PCSI (12月)--
予: --
戻: --


一致するデータがありません
MỚI
KLB – Có nằm ngoài cuộc chơi tăng lãi suất
KLB có diễn biến giá khá tốt nếu chúng ta so với diễn biến của các cổ phiếu trong ngành ngân hàng vừa qua tại Q4-2025. Vậy những diễn biến này đang đến từ nguyên nhân nào và tiềm năng còn được duy trì hay không? Chúng ta sẽ cùng đi bóc tách và phân tích chung trong bài viết này. Trước khi đi vào phân tích chi tiết KLB chúng tôi xin nhắc lại nguyên nhân chính khiến cho cổ phiếu ngân hàng điều chỉnh trong nhịp vừa qua tới từ:
Do lượng tiền gửi tăng chậm hơn cho vay gây áp lực huy động lên toàn hệ thống và khiến lãi suất huy động tăng lên để hút tiền gửi (ngoài ra lãi suất tăng cũng giúp giảm áp lực tỷ giá, thu hút khối ngoại và kìm hãm đà tăng nóng của BĐS).
Đa phần các ngân hàng đều đã tăng nhiều trong Q3 trước đó khiến cho định giá trong ngắn hạn của đa phần các cổ phiếu trong ngành không còn rẻ nữa, thậm chí một số còn lên mức cao khiến mức hấp dẫn trong ngắn hạn giảm đi.
Bài viết này sẽ phân tích KLB xem mức độ ảnh hưởng từ 2 yếu tố trên ra sao để giúp chúng ta có câu trả lời cho câu hỏi ở đầu bài.
I. Kết quả kinh doanh
KQKD của KLB vẫn cho thấy đà tăng trưởng tốt cả về tổng thu nhập thuần (TOI) và lợi nhuận trong các quý gần đây. Cụ thể trong Q3-2025 ngân hàng ghi nhận TOI đạt 1,225 tỷ đồng, tăng 21% yoy. Lợi nhuận sau thuế đạt 615 tỷ đồng, tăng mạnh 2.9 lần so với cùng kỳ. Đáng chú ý NIM của KLB vẫn duy trì được mức đi ngang nền cao quanh 4% trong 3-4 quý gần đây trong khi toàn ngành đa phần đều bị suy giảm ít nhiều về NIM và NIM đa phần đang ở vùng đáy vài năm gần đây thì NIM của KLB lại duy trì được đi ngang vùng đỉnh là rất tích cực. (Hình 1)
Nhờ NIM duy trì được mức cao kết hợp với các chi phí của ngân hàng được kiểm soát tốt (chi phí hoạt động giảm 29.2%, CIR, COF đều được kiểm soát tốt) và các mảng kinh doanh đều tăng trưởng đã giúp cho lợi nhuận của KLB tăng mạnh trong Q3-2025. Ngoài ra cũng có phần tới từ mức nền lợi nhuận của KLB trong cùng kỳ 2024 khá thấp. Dưới đây là một số điểm nhấn từ các mảng kinh doanh chính
II. Các mảng kinh doanh chính
1. Tín dụng
Về tín dụng đầu ra, KLB hiện đang cân bằng khá tốt giữa duy trì tăng trưởng tín dụng ở mức khá cao và vẫn giữ được NIM của ngân hàng ở nền cao chứ không bị suy giảm như đa phần các ngân hàng khác. Điều này có được nhờ KLB đã duy trì đầu vào rất tốt với CIR liên tục tiết giảm trong các năm gần đây từ mức đỉnh 69.28% vào Q1-2022 xuống còn 37.82% trong Q3-2025. COF cũng được kiểm soát tốt và giảm khá nhiều so với nền 2023, đầu 2024. Ngoài ra KLB cũng có lượng tiền gửi cao giúp cho không phải chịu áp lực cạnh tranh huy động đầu vào giúp cho NIM cải thiện rõ rệt. (Hình 2)
Kết thúc 9 tháng đầu năm, tổng tăng trưởng tín dụng của ngân hàng đã đạt 15.5%, cao hơn mức cùng kỳ là 14.5% nhưng tính ra lại có phần chậm lại sau khi tăng tốc mạnh tại Q1-2025 với 10.7%. Tuy nhiên trong Q4 với lợi thế về huy động đầu vào sẽ giúp KLB hoàn toàn có thể đạt tăng trưởng tín dụng cả năm quanh mức 19-20% để tiếp tục hỗ trợ cho tăng trưởng của ngân hàng. (Hình 3)
Về đầu vào, như đã nói ở trên, KLB có lợi thế so với các ngân hàng khi lượng tiền gửi khách hàng luôn duy trì cao hơn hoặc bằng lượng tiền cho vay nên ngắn hạn sẽ không phải chịu áp lực lớn về huy động và tăng lãi suất huy động quá cao khiến NIM suy giảm. Tuy nhiên tỉ lệ tiền gửi/ cho vay của KLB trong Q3-2025 đã giảm về 100%, giảm khá nhiều so với đầu 2023 từ 136%. (Hình 4)
Về dài hạn KLB cũng sẽ phải chú tâm hơn trong hoạt động huy động tiền gửi trong các năm tới khi tăng trưởng tín dụng ở mức cao. Còn trong ngắn hạn KLB vẫn chưa phải chịu áp lực quá lớn để chạy đua tăng lãi suất huy động. Điều này giúp cho ngân hàng có lợi thế về cho vay cũng như duy trì được NIM ở mức cao như hiện tại, ít chịu ảnh hưởng.
Như vậy về mảng tín dụng chúng tôi đánh giá khá cao KLB về tiềm lực, nhưng ngắn hạn Q4 tăng trưởng tín dụng cũng sẽ ở mức không cao và có thể chỉ tăng khoảng 3-4% thêm trong Q4 tới. Với việc lãi suất tăng trong tương lai thì bài toán tăng trưởng tín dụng 2026 cũng khá áp lực cho KLB và toàn ngành ngân hàng để có thể tìm kiếm các khách hàng tiềm năng trong bối cảnh nền lãi suất cao.
2. Mảng kinh doanh ngoài lãi
Mảng kinh doanh ngoài lãi của KLB cũng ghi nhận tăng trưởng tốt trong Q3-2025 với 2 mảng đóng góp chính là hoạt động dịch vụ và mảng kinh doanh khác (nghiệp vụ xử lý các khoản nợ xấu). (Hình 5)
Với mảng dịch vụ, Q3 ghi nhận lợi nhuận đạt 164 tỷ đồng, tăng 65.7% yoy và cũng là quý có mức lợi nhuận cao nhất trong 5 năm qua. Mức tăng ấn tượng trên một phần nhờ mức nền cùng kỳ thấp và sang Q4 tới sẽ không còn mức nền thấp để có thể dễ dang tăng trưởng cao được. Tuy nhiên các quý gần đây hoạt động dịch vụ cũng đang cho thấy lợi nhuận tăng dần trở lại. Vì vậy chúng tôi cho rằng Q4 mảng dịch vụ vẫn có thể tiếp tục duy trì đà tăng trưởng nhưng tỉ lệ tăng trưởng sẽ không quá cao do mức nền đã cao. Mảng hoạt động khác có tỉ lệ đóng góp ít hơn cũng ghi nhận tăng trưởng 20.2% yoy với 50 tỷ đồng. Tuy nhiên mức nền cùng kỳ 3 quý tới sẽ là khá cao nên khả năng lớn mảng hoạt động khác khó mà duy trì được tăng trưởng trong các quý tới nếu như không có gì đột biến. Chúng tôi kỳ vọng mảng này sẽ đi ngang hoặc ghi nhận giảm nhẹ trong các quý tới và 2 mảng chính này sẽ đủ bù trừ cho nhau để không khiến mảng kinh doanh ngoài lãi đi lùi.
III. Bức tranh tài chính
Bức tranh tài chính của KLB vẫn được duy trì khá tốt trong Q3-2025. Tỉ lệ nợ xấu của ngân hàng đã được kiểm soát giảm dưới 2% với 1.97%, giảm khoảng 0.19% so với Q2-2025 trước đó. (Hình 6)
Ngoài ra nợ nhóm 2, nhóm có khả năng hình thành nợ xấu trong tương lai cũng được kiểm soát khá tốt và là quý giảm thứ 2 liên tiếp sau khi ghi nhận mức cao tại Q1-2025. Hiện chỉ còn 984 tỷ đồng. (Hình 7)
Điều này sẽ giúp giảm áp lực hình thành nợ xấu trong các quý tới và có thể giúp KLB kiểm soát được tỉ lệ nợ xấu quanh mức 2%. Đây không phải là mức thấp nếu so với toàn ngành nhưng với KLB thì cũng là mức khá an toàn và đáng khích lệ trong các năm qua.
Về trích lập dự phòng, trong các quý gần đây KLB có xu hướng một quý trích lập cao lại đến một quý trích lập thấp hơn, và nếu theo quy luật trên thì khả năng Q4-2025 ngân hàng sẽ duy trì trích lập lên cao hơn Q3. Tuy nhiên khả năng cũng sẽ chỉ ngang mức cùng kỳ Q4-2024 chứ không tới mức cao hơn do bộ đệm dự phòng ở mức không quá thấp. (Hình 8)
Hiện tỉ lệ bao phủ nợ xấu của KLB là 78% sau Q3-2025, đây không phải mức quá cao những cũng là mức tương đương vùng cao của ngân hàng trong các năm vừa qua. Điều này có nghĩa khả năng cao KLB không quá mặn mà đẩy trích lập để nâng bộ đệm của mình lên cao nhiều nữa mà sẽ xu hướng duy trì trích lập đi ngang để đảm bảo tỉ lệ bao phủ nợ xấu trong vùng 80-100% các năm tới.
Như vậy tổng quan lại bức tranh tài chính của KLB ở mức khá và ngân hàng sẽ không quá áp lực phải tăng trích lập do kiểm soát tốt nợ xấu. Khả năng cao sẽ duy trì trích lập đi ngang trong các năm tới.
IV. Tổng kết và định giá
Với những phân tích trên chúng ta có thể thấy KLB cũng đang trong xu hướng tăng trưởng tiền gửi thấp hơn so với tăng trưởng cho vay trong 2 năm qua. Tuy nhiên mức độ của KLB thấp hơn khi mà hiện tỉ lệ tiền gửi/cho vay vẫn đang là 100% nên áp lực sẽ đỡ hơn các ngân hàng khác trong ngắn hạn nhưng về dài hạn sẽ khó tránh được xu hướng tăng thêm lãi suất huy động để hút tiền gửi. Về định giá, hiện KLB đang giao dịch vùng giá khoảng 16.4k/cp tương ứng mức định giá P/B khoảng 1.23 lần. Chúng tôi cho rằng đây là mức định giá cao hơn so với mức phù hợp khoảng 1.1-1.2 lần của ngân hàng.
Tuy nhiên với việc FA ngân hàng đang xu hướng tốt dần lên dù không quá đột biến thì mức 1.23 lần có thể nói là phù hợp và cân bằng cho tầm nhìn khoảng 3 tháng. Vì vậy quan điểm cá nhân của chúng tôi cho rằng trong Q4 và đầu Q1-2026 khả năng cao giá cổ phiếu KLB sẽ duy trì đi ngang vùng 15.x-16.x trước khi có xu hướng mới. Xu hướng mới sẽ phụ thuộc vào 2 yếu tố chính trong Q1 tới đó là lãi suất huy động (không được vượt lên quá cao trên mức 7-8%) và tăng trưởng tín dụng (phải duy trì được tăng trưởng tín dụng cao, ít nhất tương đương cùng kỳ 2025).
———-Team LTBNM tổng hợp và phân tích ————-
MỚI
Ngân hàng lớn cũng vào cuộc tăng lãi suất tiết kiệm
Không chỉ tăng lãi suất, một số ngân hàng còn tung chương trình ưu đãi "khủng" để kéo dòng tiền nhàn rỗi
Trong biểu lãi suất huy động mới nhất áp dụng từ đầu tháng 12-2025, Ngân hàng Quân Đội (MB) điều chỉnh tăng một loạt kỳ hạn thêm khoảng 0,3 điểm % so với tháng trước.
Theo đó, khách gửi kỳ hạn 2 tháng 3,6%; kỳ hạn 3-5 tháng 3,9%; kỳ hạn 5-11 tháng là 4,5%. Với kỳ hạn gửi dài trên 24 tháng, lãi suất huy động của MB lần đầu chạm mốc 6%/năm. Các kỳ hạn này tăng 0,3 điểm % so với tháng trước.
MB điều chỉnh lãi suất tăng cao nhất là các kỳ hạn từ 12 đến 18 tháng, tăng 0,55 điểm % lên tối đa 5,2%/năm. MB là ngân hàng thương mại mới nhất nhập cuộc tăng lãi suất thời gian qua.
Theo ghi nhận của phóng viên Báo Người Lao Động, từ tháng 10 tới nay, một loạt ngân hàng đã tăng lãi suất gửi tiết kiệm ở nhiều kỳ hạn, từ Nam A Bank, Techcombank, Vikki Bank, Cake by VPBank, BVBank, NCB, OCB, LPBank, Kienlongbank…
Lãi suất huy động tăng tiếp
Nhiều ngân hàng khác nếu không tăng lãi suất cũng chạy đua triển khai chương trình khuyến mãi tặng quà, trúng thưởng để thu hút dòng tiền rỗi từ dân cư.
Điển hình như Sacombank vừa triển khai chương trình ưu đãi đặc biệt với hàng loạt khuyến mãi hấp dẫn cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp xuyên suốt tháng 12-2025.
Khách hàng gửi tiết kiệm kỳ hạn từ 6 tháng tại quầy với số dư từ 5 tỉ đồng sẽ được cộng thêm 0,34 điểm % lãi suất.
Sacombank cũng dành tặng 340 voucher vé máy bay trị giá 6 triệu đồng cho 340 khách hàng gửi tiết kiệm kỳ hạn từ 6 tháng với số dư lũy kế cao nhất (tối thiểu 10 tỉ đồng).
VPBank cũng vừa triển khai chương trình ưu đãi đặc biệt cho khách hàng cá nhân trên toàn quốc, từ nay đến 28-2-2026. Khách hàng có cơ hội nhận hàng ngàn phần quà giá trị khi tham gia sản phẩm Super Sinh lời Premier (sản phẩm trên ứng dụng VPBank NEO). Chỉ cần một lần đăng ký, khách hàng có thể nhận khoản sinh lời vượt trội với lợi suất lên tới 4,5%/năm, cùng cơ hội quay số may mắn với tổng giá trị quà tặng lên tới 3,7 tỉ đồng.
Ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc phân tích khối khách hàng cá nhân, Công ty chứng khoán Yuanta Việt Nam, nhận định một số ngân hàng thương mại tiếp tục điều chỉnh tăng lãi suất huy động, dù quy mô tăng không lớn so với tuần trước. Bên cạnh nhóm ngân hàng quy mô vừa và nhỏ dẫn dắt đà tăng, đã bắt đầu xuất hiện một ngân hàng thuộc nhóm ngân hàng thương mại quốc doanh tăng lãi suất huy động.
Theo số liệu mới công bố của Ngân hàng Nhà nước, đến cuối tháng 9-2025, tiền gửi của khách hàng cá nhân và tổ chức kinh tế đạt gần 16,18 triệu tỉ đồng, tăng khoảng 9,8% so với cuối năm ngoái. Trong khi đó, tín dụng cùng thời điểm tăng khoảng 13,37%, cho thấy tăng trưởng tín dụng đang vượt khá xa so với tăng trưởng tiền gửi. Tính đến cuối tháng 10, tín dụng đã tăng 14,77%.
"Dù Ngân hàng Nhà nước đã gia tăng thanh khoản ngắn hạn qua kênh thị trường mở, nguồn vốn trên thị trường vẫn chưa theo kịp nhu cầu vay. Lãi suất huy động có thể tiếp tục tăng trong tháng 12, đồng thời tạo áp lực lên mặt bằng lãi suất cho vay trong năm 2026 khi biên lãi ròng đối mặt nguy cơ thu hẹp" – ông Nguyễn Thế Minh nói.
MỚI
Ngân hàng phát cảnh báo khẩn: 25 kịch bản lừa đảo đang lan rộng
Ngân hàng TMCP Kiên Long (KienlongBank, KLB) vừa tổng hợp và phát đi cảnh báo về 25 chiêu thức lừa đảo đang lan rộng trên môi trường số, nhằm giúp khách hàng nhận diện rủi ro và bảo vệ tài sản trong bối cảnh tội phạm công nghệ cao ngày càng tinh vi.
10 ngân hàng có ROE cao nhất 9 tháng năm 2025
HDBank tiếp tục nắm giữ vị trí đầu bảng với tỷ lệ ROE đạt 24,71%. Luỹ kế 9 tháng đầu năm, HDBank ghi nhận lãi sau thuế tăng 18,2% so với cùng kỳ năm trước đạt 11.833 tỷ đồng.


Quý 3/2025 đánh dấu một cột mốc lịch sử khi VN-Index vượt đỉnh, trong đó nhóm ngân hàng đã đóng vai trò dẫn dắt không thể thay thế. Tuy nhiên, điều thú vị là chiều ngược lại, chính sự sôi động của thị trường chứng khoán cũng tạo ra cú hích mạnh mẽ cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, đặc biệt nhóm sở hữu các công ty chứng khoán.
Nhóm ngân hàng – “động cơ” kéo VN-Index lên đỉnh lịch sử
Quý 3/2025 chứng kiến sự bùng nổ của thị trường chứng khoán Việt Nam, khi VN-Index liên tục vượt các mốc tâm lý quan trọng. Trong quá trình này, nhóm ngân hàng — vốn chiếm tỷ trọng lớn trong rổ chỉ số — đã đóng vai trò then chốt.
Dù thị trường đang trải qua giai đoạn hạ nhiệt nhanh từ đỉnh thời đại mới, thống kê tới hết phiên 18/11 cho thấy vẫn đang có 12/27 mã ngân hàng đang chiến thắng VN-Index, tương đương đương tỷ lệ 44.44%.
Đặc biệt, vẫn còn một số cái tên tăng trưởng hơn 2 lần với đầu năm — tiêu biểu như KLB (+118.5%), SHB (+109.6%) và ABB (+102.4%) — cho thấy dòng tiền ở những mã tăng mạnh nhất ngành ngân hàng vẫn chưa hoàn toàn rút ra.
Trong đó, SHB là cái tên thành công nhất. Không chỉ tăng giá mạnh, SHB còn là mã có thanh khoản cao nhất ngành, đóng góp lớn vào tổng thanh khoản thị trường.
Cùng với đó, MBB (+44.7%), VPB (+54.1%), TCB (+47.2%) cũng là những trường hợp thành công khi duy trì khớp lệnh 20 phiên gần nhất bình quân trên 10 triệu cổ phiếu/phiên.
Phần lớn cổ phiếu ngân hàng đã bước vào trạng thái điều chỉnh hoặc thị trường “con gấu”, phản ánh hoạt động chốt lời mạnh sau nhịp tăng theo hiệu ứng nâng hạng thị trường. Tuy nhiên, hai mã LPB và ABB là hiếm hoi giữ mức điều chỉnh dưới 10% so với đỉnh năm.
Theo ghi nhận về xu hướng dài hạn, nhóm ngân hàng vẫn duy trì trên 80% số mã trong trạng thái tăng kéo dài từ tháng 7/2025 đến nay, tức gần 4 tháng liên tiếp.
Độ rộng của các cổ phiếu Ngân hàng vẫn ghi nhận trên 80% các mã có xu hướng tăng dài hạn. (Tính đến hết phiên giao dịch 18/11)
Đây là mức độ bền vững mà thị trường đã không còn thấy lại kể từ thời kỳ bùng nổ COVID-19 giai đoạn 2020–2022, khi dòng tiền mang tính đầu cơ lẫn dài hạn ồ ạt vào cổ phiếu ngành ngân hàng.
Các ngân hàng sở hữu CTCK ghi nhận tác động của thị trường vào hoạt động
Nếu như ngân hàng đã giúp thị trường chứng khoán lập đỉnh, thì chiều ngược lại, chính thị trường chứng khoán cũng đang đóng góp đáng kể vào kết quả kinh doanh của các ngân hàng trong năm 2025.
Đặc biệt với các công ty chứng khoán thuộc sở hữu ngân hàng. Với sự bùng nổ mạnh mẽ của thị trường, hoạt động môi giới, cho vay margin và tự doanh đều ghi nhận những số liệu ấn tượng.
Theo SSI Research, thu nhập từ chứng khoán kinh doanh và đầu tư của các ngân hàng trong quý 3/2025 tăng tới 33 lần so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng thu nhập ngoài lãi toàn ngành. Qua đó, cho thấy thị trường chứng khoán đã trở thành nguồn lợi nhuận bổ sung cực kỳ quan trọng.
Các ngân hàng như ACB, TCB và VPB là những cái tên hưởng lợi lớn từ nguồn thu tại công ty chứng khoán trực thuộc như ACBS, TCBS và VBPankS.
Nhờ đó, thu nhập ngoài lãi tăng 21% so với cùng kỳ, góp phần giảm áp lực từ việc NIM đang thu hẹp và chi phí vốn tăng.
Các ngân hàng trong phạm vi nghiên cứu của SSI đạt 74.9 nghìn tỷ đồng lợi nhuận trước thuế (LNTT) trong quý 3/2025, tăng 23% so với cùng kỳ và gần như đi ngang so với quý liền trước.
Lũy kế 9 tháng năm 2025, LNTT các ngân hàng được theo dõi đạt 216.4 nghìn tỷ đồng, tăng 16.3% so với cùng kỳ.
Nhóm ngân hàng quốc doanh tăng trưởng 18%, trong khi nhóm ngân hàng tư nhân đạt 15%.
SSI kỳ vọng tăng trưởng lợi nhuận sẽ chậm lại trong quý 4/2025 do nền cao, nhưng các ngân hàng như TCB, VPB, HDB vẫn sẽ dẫn dắt nhờ tín dụng mở rộng tích cực và biên lợi nhuận ổn định.
Sau khi đạt đỉnh vào tháng 8/2025, Chứng khoán SSI cho biết hệ số P/B trượt trung bình của nhóm được theo dõi đã giảm 16.4% xuống 1.53x, thấp hơn mức trung bình 5 năm (1.65x). P/B dự phóng 2026 chỉ còn 1.28x, trong khi lợi nhuận dự kiến tăng 18%.
Quân Mai
FILI - 12:00:00 19/11/2025

Tín dụng hồi phục ở mức cao và dự báo sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng tốt bởi nhu cầu vốn lớn từ khu vực bán lẻ và doanh nghiệp, từ sự lan toả của đầu tư công, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% năm 2025. Ngành ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực tài chính, củng cố nền tảng vững chắc cho chiến lược tăng trưởng, đáp ứng dòng vốn cho nền kinh tế.
Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống cao nhất 15 năm
Trong 10 tháng đầu năm nay, hệ thống ngân hàng đã bơm thêm 2.1 triệu tỷ đồng ra nền kinh tế. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng này và mục tiêu tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng tín dụng cả năm nay có thể đạt 19-20%, là mức tăng cao nhất trong khoảng 15 năm trở lại đây.
Tính đến ngày 31/10, theo thống kê của CTCK Rồng Việt, toàn bộ 27 ngân hàng niêm yết đều công bố báo cáo tài chính quý 3/2025, hé lộ tổng dư nợ cho vay khách hàng của các ngân hàng đạt 13.6 triệu tỷ đồng, tăng 15% so với cuối năm 2024 (quy mô tín dụng đạt 13.8 triệu tỷ đồng, tăng 14.5%), phản ánh nhu cầu tín dụng tăng trưởng mạnh mẽ toàn hệ thống trong môi trường lãi suất ổn định.
Tuy nhiên, tăng trưởng huy động của các ngân hàng niêm yết đạt 11.4%. Đồng nghĩa, khoảng cách giữa tăng trưởng huy động - tăng trưởng tín dụng đã nới rộng lên mức -3.1 điểm phần trăm sau khi đã bắt kịp trong quý trước khoảng cách chỉ là 10 điểm phần trăm. Các con số này một phần lý giải xu hướng tăng vốn điều lệ của nhiều ngân hàng trong thời gian qua.
Trong sự kiện đầu tháng 11 vừa qua, TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni ước tính, nếu Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 10% từ nay đến 2030, thì quy mô tín dụng của nền kinh tế sẽ phải tăng gấp đôi. Khi đó, tài sản của hệ thống ngân hàng, vốn chủ sở hữu và các yếu tố liên quan cũng sẽ tăng tương ứng. Vai trò của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế là vô cùng quan trọng.
Ở nhóm tư nhân, nhiều ngân hàng cũng đã và đang có kế hoạch tăng vốn chủ yếu qua chia cổ tức bằng cổ phiếu hàng năm như: SHB, MBB, OCB, KLB, MSB, VietABank…
Mới đây, SHB công bố kế hoạch tăng vốn điều lệ thêm 7,500 tỷ đồng, dự kiện lên mức 53,442 tỷ đồng, thông qua: (1) phát hành hơn 90 triệu cp ESOP, (2) phát hành cho cổ đông hiện hữu hơn 459 triệu cp và (3) phát hành riêng lẻ 200 triệu cp cho nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Lợi thế nghiêng về ngân hàng có khả năng về vốn và hệ số an toàn CAR cao
Nhiều ý kiến chuyên gia đồng thuận, tăng trưởng tín dụng ở mức cao được đánh giá sẽ tiếp tục duy trì trong những năm tới, góp phần hỗ trợ nền kinh tế đạt mục tiêu tăng trưởng hai chữ số.
Trong đó, nhóm ngân hàng tư nhân được kỳ vọng sẽ tiếp đà tăng trưởng tín dụng, với mức tăng bình quân trên 20%/năm trong ba năm tới. Khi định hướng điều hành bằng hạn mức tăng trưởng tín dụng điều chỉnh theo hướng để các ngân hàng tăng trưởng dựa trên cơ chế thị trường, các ngân hàng có khả năng về vốn và hệ số an toàn vốn (CAR) cao sẽ có ưu thế.
Như trường hợp của SHB, sau khi tăng vốn thành công, vốn điều lệ của nhà băng này sẽ ở mức hơn 53,400 tỷ đồng, lên thêm một bậc lên TOP 4 ngân hàng tư nhân có quy mô vốn điều lệ lớn nhất trong hệ thống. SHB cũng là ngân hàng được biết đến thường xuyên duy trì hệ số CAR ở quanh trên 12%, vượt xa so với quy định tối thiểu 8%.
Nguồn vốn huy động được sẽ giúp SHB mở rộng quy mô cho vay, đáp ứng tốt các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động ngân hàng và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, song song với đẩy mạnh chuyển đổi với mục tiêu trở thành ngân hàng hiệu quả nhất, ngân hàng bán lẻ hiện đại hàng đầu khu vực.
Qua bức tranh kết quả kinh doanh quý 3/2025, SHB ghi nhận tăng trưởng tín dụng 15%, dòng vốn tín dụng chảy vào các lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế, đóng góp tăng trưởng đáng kể trong GDP. SHB cũng đạt kết quả kinh doanh ấn tượng trong 9 tháng đầu năm với lợi nhuận trước thuế đạt hơn 12,300 tỷ đồng, tăng 36% so với cùng kỳ năm trước và thực hiện 85% kế hoạch năm 2025.
Biên lợi nhuận (NIM) của Ngân hàng đang có xu hướng gia tăng từ 3.23% (quý 1/2025) lên 3.9% (quý 3/2025). Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) cũng tích cực, cải thiện từ 16.71% lên 19.23%.
Các con số trên cho thấy tăng trưởng bền vững của Ngân hàng, và kỳ vọng quý cuối năm có thể đẩy kết quả của SHB vượt kế hoạch năm 2025 đã đặt ra.
Cùng với tiềm năng tăng trưởng từ nội lực phát triển của ngân hàng, trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu SHB còn hấp dẫn nhà đầu tư khi được dự báo là một trong 28 ứng cử viên sáng giá cho danh mục FTSE Global All Cap - khi thỏa các tiêu chí về quy mô, thanh khoản và mức độ minh bạch thông tin theo chuẩn FTSE để được thêm vào rổ chỉ số toàn cầu. Đây là cơ hội để thu hút dòng vốn ngoại đến với cổ phiếu SHB, trong bối cảnh “room” ngoại của Ngân hàng vẫn đang còn nhiều dư địa.
Trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và toàn diện, SHB đang thướng đến mục tiêu trở thành Ngân hàng TOP 1 về hiệu quả; Ngân hàng Số được yêu thích nhất; Ngân hàng Bán lẻ tốt nhất đồng thời là Ngân hàng TOP đầu cung ứng nguồn vốn, sản phẩm tài chính dịch vụ với khách hàng doanh nghiệp chiến lược tư nhân và Nhà nước, có chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, hệ sinh thái, phát triển xanh. Tầm nhìn đến năm 2035, SHB trở thành Ngân hàng bán lẻ hiện đại, Ngân hàng xanh, Ngân hàng số trong TOP đầu của khu vực.
Minh Tài
FILI - 14:35:51 18/11/2025

Trong tương lai, cuộc chơi sẽ không chỉ là huy động vốn rẻ, mà là ngân hàng nào có bộ máy vận hành tinh gọn nhất. Ngân hàng nào tiên phong chuyển đổi số, giảm được chi phí hoạt động thấp nhất, có thể chủ động duy trì NIM thấp để cung cấp lãi suất cho vay cạnh tranh thì sẽ nắm giữ lợi thế cạnh tranh rất lớn trên thị trường.
Dữ liệu từ VietstockFinance cho thấy, biên lãi ròng (NIM - Net Interest Margin) bình quân của 27 ngân hàng trong quý 3/2025 là 2.91%, giảm so với mức 2.98% của quý 2 và 3.09% của quý 1. Đáng chú ý, NIM của 20/27 ngân hàng tiếp tục sụt giảm so với quý trước đó.
VPBank là ngân hàng có hệ số NIM cao nhất, đạt 5.36%; kế đến là HDBank (HDB, 4.82%), MB (MBB, 4.03%), Kienlongbank (KLB, 3.97%) và Techcombank (TCB, 3.66%).
NIM quý 3/2025 của các ngân hàngNguồn: VietstockFinance
NIM mỏng đi là xu hướng trong dài hạn
PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân - Giảng viên cấp cao, Đại học Kinh tế TPHCM - cho rằng, cần nhìn nhận xu hướng sụt giảm NIM chắc chắn là xu hướng dài hạn và sẽ ngày càng rõ nét hơn trong tương lai. Áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng như yêu cầu hỗ trợ nền kinh tế khiến việc duy trì NIM ở mức cao như trước đây là điều không bền vững.
Tuy nhiên, điều quan trọng là bản chất của sự sụt giảm này có thể không hoàn toàn là diễn biến bị động, tức là ngân hàng bị thị trường "ép" phải giảm NIM. Thay vào đó, đó có thể là động thái chủ động, do chiến lược riêng của chính các ngân hàng.
Ngân hàng chủ động chấp nhận NIM mỏng hơn để theo đuổi mục tiêu tăng cường sức cạnh tranh và duy trì mặt bằng lãi suất cho vay ở mức thấp. Bằng cách này, họ có thể thu hút thêm khách hàng mới và giữ chân khách hàng hiện hữu, qua đó gia tăng quy mô và thị phần.
Nền tảng cho việc chủ động giảm NIM chính là nhờ ngân hàng đã cắt giảm thành công chi phí hoạt động (CIR). Các ngân hàng hiện nay đang ở trong cuộc đua rất mạnh mẽ và quyết liệt về chuyển đổi số. Thành quả của quá trình này không chỉ giúp cải thiện trải nghiệm người dùng mà còn tối ưu hóa vận hành triệt để. Chi phí hoạt động, nhờ đó, đã giảm đi khá nhiều. Có thể thấy biểu hiện rõ ràng nhất của xu hướng này là việc nhiều ngân hàng đóng cửa bớt các phòng giao dịch, chi nhánh vật lý không hiệu quả và thay thế bằng các nền tảng tự động hóa, ứng dụng ngân hàng số.
Việc giảm đáng kể chi phí cố định và chi phí vận hành này đã tạo ra dư địa tài chính quan trọng. Phần chi phí tiết kiệm được này chính là nguồn lực để các ngân hàng bù đắp cho phần NIM bị giảm đi. Nói cách khác, các ngân hàng đang đánh đổi - hy sinh một phần biên lợi nhuận trên mỗi đồng vốn huy động, nhưng bù lại, họ tiết kiệm được chi phí vận hành và tăng được quy mô khách hàng.
Trong tương lai, cuộc chơi sẽ không chỉ đơn giản là ngân hàng nào huy động vốn rẻ, mà còn ở việc ngân hàng nào có bộ máy vận hành tinh gọn nhất. Ngân hàng nào tiên phong chuyển đổi số, giảm được CIR thấp nhất, từ đó có thể chủ động duy trì NIM thấp để cung cấp lãi suất cho vay cạnh tranh, ngân hàng đó sẽ nắm giữ lợi thế cạnh tranh rất lớn trên thị trường.
Trong khi đó, ông Nguyễn Quang Huy - CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường đại học Nguyễn Trãi cũng cho rằng, NIM tiếp tục sụt giảm trong quý 3 là hiện tượng bình thường trong chu kỳ tín dụng cuối năm, không phải dấu hiệu suy yếu nghiêm trọng.
Nguyên nhân chủ yếu do chi phí vốn tăng khi lãi suất huy động được điều chỉnh theo yếu tố mùa vụ, trong khi lãi suất cho vay chưa thể tăng tương ứng do chính sách hỗ trợ phục hồi kinh tế. Cùng với đó, tỷ lệ CASA giảm khiến chi phí huy động bình quân cao hơn. Tốc độ tăng tín dụng nhanh hơn huy động (thể hiện qua LDR gần 94%) cũng làm biên lãi ròng tạm thời bị thu hẹp.
Dù NIM giảm, lợi nhuận ngành ngân hàng vẫn ổn định nhờ dư nợ tăng mạnh, thu nhập dịch vụ mở rộng và chi phí hoạt động được kiểm soát. Các ngân hàng lớn có nền vốn rẻ, hệ sinh thái thanh toán số và danh mục bán lẻ đa dạng duy trì lợi thế, giúp tác động suy giảm NIM được hấp thụ tốt.
Bước sang quý 4, NIM được dự báo ổn định và có thể cải thiện nhẹ, khi áp lực huy động hạ nhiệt, tín dụng vào mùa cao điểm, và thu nhập từ dịch vụ, trái phiếu, đầu tư tài chính tăng lên. Ngoài ra, việc tối ưu danh mục cho vay, tăng tỷ trọng tín dụng bán lẻ, SME và kiểm soát chi phí vốn sẽ tiếp tục hỗ trợ biên lãi ròng.
Nhìn chung, việc NIM giảm trong quý 3 là sự điều chỉnh kỹ thuật trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng mạnh, phản ánh quá trình tái cân bằng lợi nhuận - an toàn - bền vững của toàn hệ thống chứ không phải dấu hiệu rủi ro. Triển vọng quý 4 và đầu năm 2026 vẫn tích cực, với xu hướng lợi nhuận duy trì ổn định, cấu trúc vốn hiệu quả hơn và chất lượng tài sản tiếp tục được cải thiện.
Cát Lam
FILI - 10:00:00 17/11/2025
株式、FX、コモディティ、先物、債券、ETF、仮想通貨などの金融資産を取引する際の損失のリスクは大きなものになる可能性があります。ブローカーに預け入れた資金が完全に失われる可能性があります。したがって、お客様の状況と財政的資源に照らして、そのような取引が適しているかどうかを慎重に検討していただく必要があります.
十分なデューデリジェンスを実施するか、ファイナンシャルアドバイザーに相談することなく、投資を検討するべきではありません。お客様の財務状況や投資ニーズを把握していないため、当社の ウェブコンテンツはお客様に適しない可能性があります。当社の財務情報には遅延があったり、不正確な情報が含まれている可能性があるため、取引や投資に関する決定については、お客様が全責任を負う必要があります。当社はお客様の資本の損失に対して責任を負いません。
ウェブサイトから許可を得ずに、ウェブサイトのグラフィック、テキスト、または商標をコピーすることはできません。このウェブサイトに組み込まれているコンテンツまたはデータの知的財産権は、そのプロバイダーおよび交換業者に帰属します。
ログインしていません
ログインしてさらに多くの機能にアクセス

FastBull プロ
まだ
購入
サインイン
サインアップ